Đề tài Mâu thuẫn biên chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam

Như ta đã biết theo lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin thì tất cả các nước trên thế giới đều phải trải qua thời kỳ quá độ lên CNXH. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH,từ đại hội Đảng lần 6 đến đại hội Đảng lần 10 đã khẳng định việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một chủ chương chiến lược lâu dài và là mồt đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH. Mô hình nền kinh tế Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.

docx18 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Mâu thuẫn biên chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A-Giới thiệu đề tài: * ..................Lý do chon đề tài: *....................Phạm vi nghiên cứu: B - Nội dung chính: I - Cơ sở đề tài: 1)...................Cơ sở lý luận: 2).................... Cơ sở thưc tiễn: * Khái niệm kinh tế hành hóa: * Một số đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta: II - Thực trạng và giải pháp những vấn đề nghiên cứu: a)Mâu thuẫn giữa yêu cầu ổn định và phát triển nền kinh tế với tình trạng trì trệ của nền kinh tế. b) Mâu thuẫn giữa trình độ phát triển xã hội còn thấp với yêu cầu tích luỹ, tiêu dùng cao. c) Mâu thuẫn trong quá trình mở cửa kinh tế với bên ngoài với tính phức tạp về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng gia tăng, năng lực điều hành, quản lý còn thấp kém. d) Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nền kinh tế với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp khác nhau trong xã hội. C - Kết luận A- GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI * Lý do chon đề tài: Như ta đã biết theo lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin thì tất cả các nước trên thế giới đều phải trải qua thời kỳ quá độ lên CNXH. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH,từ đại hội Đảng lần 6 đến đại hội Đảng lần 10 đã khẳng định việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một chủ chương chiến lược lâu dài và là mồt đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH. Mô hình nền kinh tế Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Là một sinh viên thuộc chuyên ngành kinh tế. Việc tìm hiểu cũng như nắm được chủ chương chính sách của Đảng và nhà nước ta, nắm bắt được những mặt thuận lợi, khó khăn, những yếu tố khách quan, chủ quan trong quá trình cải tạo nền kinh tế nhằm thoát khỏi tình trạng thấp kém trì trệ là một yếu tố cần thiết không thể thiếu được. Chính những kiến thức, phương pháp luận đó sẽ giúp đỡ ta rất nhiều trong quá trình học tập cũng như công tác sau này. Chính vì vậy nên em đã chọn đề tài: “Mâu thuẫn biên chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam” *Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng mối quan hệ một số nghành, lĩnh vực kinh tế nước ta hiện nay Công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta trong thòi kỳ mới. B NỘI DUNG CHÍNH: I - Cơ sở đề tài: 1)Cơ sở lý luận: Tất cả những sự vật hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược mâu thuẫn với nhau. Những mặt trái ngược nhau đó theo phép biên chứng duy vật gọi là các mặt đối lập. Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm,những thuộc tính những quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sự vật Các mặt đối lập nằm trong liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biên chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên,xã hội và tư duy.Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại vùa đấu tranh với nhau. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của các mặt này phải láy sự tồn tại của các mặt kia làm tìên đề. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuuộc đấu trang giữa chúng. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là h ai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biên chứng bao hàm cả sự thống nhất lẫn đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gán liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển điều đó có nghĩa là sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kện chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới,sự vật cũ được thay thế bởi sự vật mới. 2- Cơ sở thưc tiễn: Trong quá trình phát triển, xã hội luôn nảy sinh các mâu thuẫn. Khi một lớp mâu thuẫn được giải quyết hoặc dịu đi thì một lớp mâu thuẫn khác xuất hiện, lớp nọ kế tiếp lớp kia đòi hỏi giải quyết. Giải quyết mâu thuẫn chính là động lực của sự phát triển và phải đạt mục tiêu hài hòa về lợi ích giữa các nhóm, giai tầng xã hội chứ không phải triệt tiêu lợi ích của bất cứ nhóm, giai tầng nào. Lợi ích của tất cả các nhóm, giai tầng trong xã hội đều cần được tôn trọng và bảo vệ nhưng lợi ích dân tộc vẫn phải được đặt lên trên hết. Nếu giải quyết tốt những mâu thuẫn không đối kháng thì xã hội sẽ phát triển, nếu giải quyết không tốt thì mâu thuẫn có thể trở thành đối kháng và có thể dẫn xã hội đi tới thoái hóa, thậm chí suy sụp. Giải quyết tốt mâu thuẫn chính là làm tăng sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích đối lập đến tột đỉnh, triệt giảm sự xung đột đấu tranh giữa chúng đến mức nhỏ nhất có thể. Cơ sở để giải quyết tốt mọi mâu thuẫn trong xã hội chính là văn hóa và do đó biện pháp dân chủ sẽ là thích hợp và hiệu quả nhất. * Khái niệm kinh tế hành hóa: Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm làm ra dùng để trao đổi hoặc để bán trên thị trường. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường. Theo C.Mác sản xuất lưu thông hàng hoá là hiện tượng vốn có của nhiều hình thái kinh tế xã hội. Những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cũng như trình độ phát triển của nó do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Mục đích của kinh tế thị trường chính là phát triển lực lượng sản xuất phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Chính vì vậy đậi hội đảng lần IX của đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật kinh tế thị trường vùa dựa trên cơ sở vừa dẫn dắt , chi phối bởi các nguyên tắc và bẩn chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiên cả trên ba mặt: sở hữu tổ chức quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chíng là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh * Một số đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta: a)Việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hiện nay ở nước ta mới ở giai đoạn đầu, xuất phát điểm còn thấp, nền kinh tế hàng hoá chưa phát triển; sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên, tự cung, tự cấp. Thể hiện ở cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế nói chung và từng thành phần kinh tế nói riêng. Nhìn chung, sản xuất còn thủ công; năng suất lao động thấp, khối lượng ít, chất lượng và tỷ suất hàng hoá thấp, chưa đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại. Việc hình thành các thành phần kinh tế mang nặng tính tự phát. b) Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chưa được xoá bỏ triệt để, tác phong, lề lối, thói quen cũ trong quản lý của cơ quan nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến các thành phần kinh tế. Sự đan xen cơ chế quản lý cũ và cơ chế quản lý mới vừa cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế, vừa tạo môi trường cạnh tranh không bình đẳng, phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, trong các đơn vị kinh tế cũng như trong bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước. c) Thành phần kinh tế quốc doanh đã nhiều năm tồn tại trong chế độ bao cấp, chưa kịp chuyển sang cơ chế mới, độ nhạy cảm với thị trường còn thấp. Không ít các xí nghiệp quốc doanh trì trệ, bế tắc, không đứng vững trong cơ chế mới, đây cũng là mảnh đất cho các hiện tượng tiêu cực nảy sinh và phát triển. Thành phần kinh tế tập thể giảm đi nhanh chóng cả trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp, lĩnh vực lưu thông. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy có phát triển nhưng mới chỉ tập trung vào các ngành không cần vốn lớn, thu lợi nhanh như dịch vụ ăn uống, khách sạn, thương nghiệp. Các thành phần kinh tế này chưa thực sự bình đẳng trong cạnh tranh. Do còn có sự can thiệp về hành chính của cơ quan nhà nước, nhất là các thủ tục hành chính nên họ thường chú trọng đến việc tranh thủ các cơ quan, viên chức nhà nước để có những lợi thế trong cạnh tranh và thu nguồn lợi không từ sản xuất, kinh doanh. d) Mức độ hình thành và hoàn thiện thị trường ở nước ta mới ở giai đoạn sơ khai, thiếu đồng bộ về thị trường vốn, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường sức lao động, thị trường tư liệu tiêu dùng. Điều đó dẫn tới các thành phần kinh tế chưa có môi trường thực sự cạnh tranh theo cơ chế thị trường. Nói một cách khác, hiện nay nền kinh tế của nước ta mới chỉ là giai đoạn đầu của nền kinh tế hàng hoá (nhiều thành phần) chưa phải nền kinh tế thị trường; chưa có cơ chế thị thực sự điều tiết nó. II - Thực trạng và giải pháp những vấn đề nghiên cứu: Từ những đặc điểm trên cho thấy để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đòi hỏi tổ chức, hoạt động thanh tra phải được đổi  mới trên cơ sở nhận thức đúng thực chất nền kinh tế hiện nay ở nước ta. Đó là việc nhận thức những mâu thuẫn đặt ra trong cải cách kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và mục tiêu, biện pháp phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta mà Đại hội VII đã đề ra. Mâu thuẫn đó là: a)Mâu thuẫn giữa yêu cầu ổn định và phát triển nền kinh tế với tình trạng trì trệ của nền kinh tế. Nước ta quá độ lên CNXH từ một nước phong kiến với trình độ lao động sản xuất, lực lượng sản xuất còn thấp kém, nền kinh tế hàng hóa còn chưa phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc còn nghèo nàn lạc hậu...không đáp úng được những yêu cầu phát triển của nền kinh tế nói chung và từng thành phần kinh tế nói riêng. Do vậy yêu cầu để có một nền kinh tế phát triển ổn định với mức tăng trưởng cao là một vấn đề khó khăn. Cần phải có những chính sách phù hợp vói tình trạng và hoàn cảnh của nên kinh tế và khắc phục những mâu thuẫn nội tại . Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay. Để đạt mục tiêu đến năm 2010 thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển, tốc độ phát triển kinh tế thời gian tới phải đạt mức trung bình khoảng 8%/năm(1). Chỉ bằng cơ chế, chính sách như hiện nay, chúng ta khó có thể thực hiện phát triển đột biến về khả năng khai thác những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động trong nước, về khả năng tận dụng những cơ hội quốc tế để gia tăng mạnh và sử dụng tốt các nguồn lực từ bên ngoài. Nền kinh tế hiện vẫn rất dễ bị tổn thương trước tác động không lớn lắm của những biến đổi kinh tế bên ngoài. Khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và thế giới ngày càng mở rộng. Sự tụt hậu trên lĩnh vực này chưa được ngăn chặn. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ. Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế chưa thật vững chắc, dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động từ bên ngoài. Trình độ khoa học, công nghệ, năng suất lao động còn thấp; giá thành nhiều sản phẩm cao hơn so với khu vực và thế giới. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt. Ðầu tư của Nhà nước dàn trải, bị thất thoát nhiều. Một số công trình xây dựng lớn, quan trọng của quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng. Môi trường sinh thái ở nhiều nơi ô nhiễm nặng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nhìn chung chưa hợp lý. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chất lượng thấp, nhất là lĩnh vực dịch vụ. Nội dung và các biện pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp và nông thôn chưa cụ thể. Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là cổ phần hóa chưa đạt yêu cầu đề ra. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động chưa qua đào tạo vẫn là phổ biến, lao động nông nghiệp còn chiếm tỉ lệ cao. Kinh tế đối ngoại chưa phát huy đầy đủ các khả năng; doanh nghiệp trong nước chưa đủ sức vượt qua những khó khăn về cạnh tranh và thị trường. Việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển và vận hành hệ thống thị trường chưa đồng bộ; một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm; tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt để. Yêu cầu đặt ra: Để ổn định sản xuất, giữ tốc độ tăng trưởng trong những thời gian tới, một số chính sách đã được Chính phủ đưa ra: Trước hết, cần phải thống nhất quan điểm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao gắn liền với biện pháp kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá để ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Trước mắt phải ưu tiên các giải pháp ngắn hạn chống lạm phát; những giải pháp dài hạn có thể được thực hiện chậm hơn. b) Mâu thuẫn giữa trình độ phát triển xã hội còn thấp với yêu cầu tích luỹ, tiêu dùng cao. Trong thời kỳ nền kinh tế thế giới đang tăng trưởng cao, các thành tựư khoa học kỹ thuật được đưa vào ứng dụng phúc vụ lọi ích của người dân khiến đời sống vật chất của những người ở các nước phát triển ngày càng trở nên sung túc. Nước ta đang trong thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng của thời kỳ quá độ vói lực lượng sản xuất con thấp, trình độ phát triển xã hội chưa cao được thể hiên ở các mặt như: Trong khi GDP bình quân đầu người ở các nước trong khu vực lên tới vài nghìn USD thì tính đến năm 2007 đạt mức 750 USD. Các chính sách hộ trợ, phát triển xã hội chưa cao, được thể hiện ở các quỹ phúc lợi xã hội, quỹ trợ cấp, trình độ dân trí còn thấp và chưa đồng đều, nhất là tỷ lệ biết chữ ở những nơi vùng sâu vùng xa còn thấp... trong quá trình xây dựng nền kinh tế phát triển cao theo hướng hiện đại hóa đòi hỏi con người phải đạt tới một trình độ nhận thức nhất định tức là phải đào tạo người công nhân tri thức cao, ngoài ra để phát triển nền kinh tế còn cần phải có một nền móng, tức là yêu cầu phải có nguồn vốn tích lũy cao dùng nó để xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng phát triển kinh tế, điều này mâu thuẫn với chính thu nhập hiện tại của người dân. Từ những vấn đề trên ta thấy yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải phát huy nguồn lực con người, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phẩm chất tốt bằng cách chăm lo cho nền giáo dục đào tạo con người, chuẩn hóa đội ngũ giảng dạy và phòng chống các vấn đề tiêu cực trong giáo dục. c) Mâu thuẫn trong quá trình mở cửa kinh tế với bên ngoài với tính phức tạp về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng gia tăng, năng lực điều hành, quản lý còn thấp kém. Trong thời đại ngày nay, quá trình giao lưu mở cửa nền kinh tế với các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới là một vấn đề không thể thiếu được. Nó thúc đảy nền kinh tế ở những nước đó phát triển tránh lạc hậu và mau chóng theo kịp với các cường quốc kinh tế trên thế giới.Tuy nhiên quá trình mở của và hội nhâp cũng gây không ít khó khăn và tiêu cực cho nền kinh tế- xã hôi nước ta: + Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khả năng giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc phục những tác động tiêu cực của hội nhập. Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một nhân tố tất yếu để phát triển, nhưng chúng ta còn thiếu nhất quán và lúng túng, bị động trong việc xử lý mối quan hệ giữa mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữa độc lập tự chủ về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, lúng túng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hội nhập đồng thời nhiều cấp độ hơn, sâu hơn, rộng hơn, đa dạng hơn... với việc giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc. .. trong bối cảnh nước ta đã hội nhập sâu hơn và thực chất hơn vào kinh tế thế giới và khu vực sau khi đã trở thành thành viên của WTO, điều quan trọng trước tiên là Ngoại giao cần khẩn trương phối hợp với các bộ, ngành liên quan đề ra một chiến lược tổng thể về hội nhập với các lộ trình và bước đi phù hợp để chủ động nắm bắt thời cơ, đẩy lùi và giảm thiểu những tác động không thuận mà quá trình này tạo ra .phát huy những thành tựu đạt được, chúng ta cần tiếp tục củng cố, xây dựng khuôn khổ quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước, nhất là láng giềng khu vực, các nước lớn và các đối tác quan trọng khác; tạo bước chuyển biến mới theo hướng đưa các mối quan hệ hợp tác giữa nước ta và các nước đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, tạo ra sự tin cậy lẫn nhau. phải đẩy mạnh hơn nữa công tác ngoại giao nhiệm vụ phục vụ kinh tế để công tác này thực sự trở thành nhiệm vụ trọng tâm và mang lại hiệu quả lớn hơn, nhằm thu hút tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoại giao phải chủ động hơn nữa để góp phần vào mở rộng thị trường, gia tăng hợp tác viện trợ, đầu tư, nhất là đón đầu làn sóng đầu tư mới; hỗ trợ đắc lực cho các địa phương, các doanh nghiệp trong hợp tác với các đối tác nước ngoài. +Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả năng bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác động tiêu cực của những mặt trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của .một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hoá lai căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp. Tình huống mất ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình hình gia tăng hơn... + Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận xã hội trong đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một điều kiện tất yếu để đưa công cuộc đổi mới tiến lên mạnh mẽ hơn. Nhưng, cùng với những yếu kém của chính chúng ta, thì sự tác động của các thế lực thù địch nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình" đối với nước ta bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp và phương tiện, cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua một số phần tử cơ hội về chính trị để chống phá trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận đã làm cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân phân tâm... Chúng ta có phần còn lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này. + Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống thực dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân dân, phát huy đóng góp của nhân dân vào việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới, thì tình trạng thờ Ơ chính trị, chỉ lo vun vén cho lợi ích của bản thân và gia đình, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng. Chúng ta chưa tìm được cách để khắc phục tình hình này với hiệu quả cao. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thiếu trung thực và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách n
Tài liệu liên quan