Như chúng ta đã biết, trong thời gian vừa qua nến kinh tế thế giới nói chung và
kinh tế Việt nam nói riêng tăng trưởng rất nóng. Song song đó, thế giới ngày
càng bất ổn, nền kinh tế luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Điều này thể hiện rất rõ
qua sự kiện ngày 17/8/2007 vừa qua, các chỉ số chứng khoán bắt đầu sụt giảm
nghiêm trọng và suốt những ngày sau đó. Các thị trường tài chính trên thế giới
đều đặt trong tình trạng báo động và ngân hàng trung ương các nước luôn cảnh
giác để sẵn sang can thiệp bất cứ lúc nào. Có thể nói trong thời gian vừa qua,
cả nền kinh tế thế giới luôn gặp những vấn đề nan giải : khủng hoảng tín dụng
thế chấp bất động sản, lạm phát, khủng hoảng lương thực, thế giới lao đoa
trong khi giá dầu và giá vàng liên tục lập kỷ luc chưa từng có.
Những vấn đề này tác động đến nền kinh tế Việt Nam ra sao?
Chỉ trong vài tháng đầu năm 2008, thị trường tài chính luôn là tâm điểm quan
tâm của cả nước với những rủi ro về một cụôc khủng hoảng sẽ xảy ra. Vào
khoảng tháng 2 và tháng 3, chỉ số chứng khoán không ngừng sụt giảm. Bên
cạnh đó, sự gia tăng chỉ số giá tiêu dùng cùng một số bất ổn về tín dụng đã
khiến cho VNĐ tăng giá so với USD (dự báo VNĐ sẽ tăng 1% năm 2008 và
2% trong năm 2009 so với USD) kèm theo sự gia tăng lãi suất. Trong tuần đầu
tháng 03 năm 2008, lấn áp sự ảm đạm trên thị trường cổ phiếu, thị trường trái
phiếu dường như đang dần trở thành tâm điểm chú ý của giới đầu tư, đặc biệt
là các nhà đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay, nắm giữ trái phiếu có
thể ổn định trong dài hạn.
86 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề:
Như chúng ta đã biết, trong thời gian vừa qua nến kinh tế thế giới nói chung và
kinh tế Việt nam nói riêng tăng trưởng rất nóng. Song song đó, thế giới ngày
càng bất ổn, nền kinh tế luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Điều này thể hiện rất rõ
qua sự kiện ngày 17/8/2007 vừa qua, các chỉ số chứng khoán bắt đầu sụt giảm
nghiêm trọng và suốt những ngày sau đó. Các thị trường tài chính trên thế giới
đều đặt trong tình trạng báo động và ngân hàng trung ương các nước luôn cảnh
giác để sẵn sang can thiệp bất cứ lúc nào. Có thể nói trong thời gian vừa qua,
cả nền kinh tế thế giới luôn gặp những vấn đề nan giải : khủng hoảng tín dụng
thế chấp bất động sản, lạm phát, khủng hoảng lương thực, thế giới lao đoa
trong khi giá dầu và giá vàng liên tục lập kỷ luc chưa từng có.
Những vấn đề này tác động đến nền kinh tế Việt Nam ra sao?
Chỉ trong vài tháng đầu năm 2008, thị trường tài chính luôn là tâm điểm quan
tâm của cả nước với những rủi ro về một cụôc khủng hoảng sẽ xảy ra. Vào
khoảng tháng 2 và tháng 3, chỉ số chứng khoán không ngừng sụt giảm. Bên
cạnh đó, sự gia tăng chỉ số giá tiêu dùng cùng một số bất ổn về tín dụng đã
khiến cho VNĐ tăng giá so với USD (dự báo VNĐ sẽ tăng 1% năm 2008 và
2% trong năm 2009 so với USD) kèm theo sự gia tăng lãi suất. Trong tuần đầu
tháng 03 năm 2008, lấn áp sự ảm đạm trên thị trường cổ phiếu, thị trường trái
phiếu dường như đang dần trở thành tâm điểm chú ý của giới đầu tư, đặc biệt
là các nhà đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay, nắm giữ trái phiếu có
thể ổn định trong dài hạn.
II. Mục tiêu nghiên cứu:
Hiện nay thị trường trái phiếu vẫn chưa hoạt động sôi động. Một điều đáng lưu
ý là toàn bộ giao dịch trái phiếu trong thời gian qua rất nhộn nhịp nhưng phần
lớn giao dịch này vẫn là ở các trái phiếu chính phủ do kho bạc nhà nứơc phát
hành và không có sự hiện diện của trái phiếu doanh nghiệp. Mục tiêu của đề
tài là nhằm đề ra các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là giải
pháp phát triển trái phiếu doanh nghiệp.
III. Phương pháp nghiên cứu:
Từ việc thống kê tình hình phát triển thị trường trái phiếu ở các nước trên thế
giới, đề tài nhằm xem xét, đánh giá qui mô, cách thức giao dịch ở các nước. Từ
đó, xem xét tình hình nền kinh tế Việt Nam để đề ra giải pháp phát triển. Thị
trường trái phiếu sẽ là một kênh huy động vốn đầy tiềm năng trong tương lai.
IV. Kết cấu chuyên đề:
Với mục đích đó, đề tài được trình bày theo 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về thị trường trái phiếu
Chương 2: Tổng quan th ị trư ờng trái phi ếu ở các nước
Chương 3: Mô hình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
1.1 Nền tảng cho một thị trường trái phiếu phát triển:
Thị trường trái phiếu phát triển là một thị trường có tính thanh khoản rất cao,
hay nói một cách cụ thể là nơi mà nhà đầu tư muốn bán trái phiếu trước hạn thì
chắc chắn sẽ có nhà đầu tư khác sẵn lòng chi trả mua chứng khoán đó, việc thực
hiện giao dịch đó diễn ra một cách nhanh chóng thông qua bảng điện tử kết nối
trực tiếp với nhau, nơi đó chính là thị trường thứ cấp.
Một vài đặc điểm quan trọng mà thị trường có thể được đánh giá là có tính thanh
khoản chính là độ sâu, độ an toàn tương đối và độ hồi phục. Trong đó:
Độ an toàn được đo lường bởi chênh lệch giá mua bán,chỉ ra những chi phí
phát sinh bởi những người tham gia thị trường khi thực hiện hợp đồng; chênh lệch
càng thấp thì tính thanh khoản thị trường càng cao.
Độ sâu của thị trường xác định phạm vi nó có thể giải quyết các hợp đồng
lớn mà không làm thay đổi nhiều về giá
Độ hồi phục xác định tốc độ mà những dao động về giá cuối cùng giảm
dần. Yếu tố khác có thể là qui mô thị trường, vì thị trường cùng với những cổ
phiếu đang lưu hành nhìn chung có doanh thu bằng tiền mặt cao và giao dịch giao
sau lớn.
1.2 Mô hình vận hành thị trường trái phiếu ở các nước phát triển
Theo mô hình trên thì để vận hành được một thị trường trái phiếu hiệu quả
cần có sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng của các toàn bộ các yếu tố vĩ mô và vi
mô bao gồm:
o Chính phủ điều hành các yếu tố vĩ mô tốt
o Cơ sở nhà đầu tư phát triển cả về mặt chất và mặt lượng
Thị trường trái phiếu chính phủ
hiệu quả
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật như thanh
toán, bù trừ
Cơ cấu hệ
thống pháp
luật rõ ràng
Mức chuẩn tín dụng
Việc giao dịch
năng động
chứng khoán
nợ
Doanh nghiệp lớn/ hoạt động
phát hành nợ
Thị trường nợ trong nước
phát triển
Hoạt động
doanh
nghiệp hiệu
quả
Phát triển chiều rộng
và chiều sâu số lượng
NĐT
Thị trường sản phẩm
tài
chính phái sinh hiệu
quả
Chính phủ điều hành
tốt
Phương pháp giám sát năng
động
o Thị trường các sản phẩm tài chính phái sinh phải hoạt động hiệu quả
o Hoạt động quản trị doanh nghiệp phải hiệu quả
o Các chứng khoán nợ được giao dịch một cách chủ động
o Cơ cấu hệ thống pháp luật phải rõ ràng
o Thị trường phải xây dựng được một mức chuẩn tín dụng
o Hệ thống hạ tầng kỹ thuật thị trường như thanh toán bù trừ phải tốt
o Có sự tham gia phát hành nợ của các doanh nghiệp lớn
o Thị trường trái phiếu chính phủ phải vận hành hiệu quả
o Phương pháp giám sát thị trường một cách năng động
Qua đó, có thể thấy các chủ thể tham gia thị trường đóng vai trò rất quan trọng
trong việc vận hành thị trường trái phiếu.
1.2.1 Nhà phát hành: thành phần chính là chính phủ và doanh nghiệp
Chính phủ: nhà phát hành lớn nhất trên thị trường trái phiếu. Ngoài mục
đích huy động vốn cho việc tài trợ các dự án phát triển của chính phủ, cho ngân
sách nhà nước, việc phát hành trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu chính phủ theo lô
lớn thì nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường giao dịch thứ cấp. Mặt
khác, chính phủ có trách nhiệm thiết lập cách đo lường kinh tế vĩ mô và khung
pháp lý tốt nhằm tạo ra môi trường phát triển lành mạnh.
Doanh nghiệp: Doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhằm đa dạng hóa việc
tài trợ và sự ổn định trong cấu trúc vốn. Ngoài kênh huy động vốn qua việc phát
các nhà điều hành thị trường
Nhà
đầu
tư
Nhà
phát
hành
Trung gian
thị trường
hành cổ phiếu, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu, ghi nhận một khoản nợ
phải trả với những người nắm giữ trái phiếu. Chi phí tài trợ liên quan đến thời gian
đáo hạn có xu hướng thấp hơn vay mượn qua công cụ ngắn hạn của ngân hàng
Các tổ chức tài chính khác như ngân hàng, công ty tài chính, công ty chứng
khoán, các quỹ đầu tư. Họ vừa là tổ chức tham gia phát hành trái phiếu vừa đứng
ra bảo lãnh phát hành trái phiếu cho các doanh nghiệp. Sự có mặt của họ trên thị
trường thứ cấp nhằm làm tăng tính thanh khoản cho những trái phiếu đã phát hành.
1.2.2 Nhà tạo lập thị trường:
Đó chính là công ty chứng khoán, nhà môi giới- giao dịch. Họ chấp nhận
đứng ra gánh chịu tổn thất khi nắm giữ một lượng chứng khoán nhất định nhằm
thúc đẩy thị trường phát triển. Do đó họ luôn đối mặt với rủi ro lãi suất. Và việc sử
dụng các công cụ tài chính phái sinh sẽ giúp họ ngăn ngừa rủi ro. Nhà tạo lập thị
trường thực hiện các giao dịch cho nhà đầu tư. Do vậy họ phải có đủ khối lượng
trái phiếu để bán nếu nhà đầu tư muốn mua trái phiếu và đủ nguồn vốn để thanh
toán nếu nhà đầu tư muốn bán trước hạn.
Các giao dịch trái phiếu thường có khối lượng và giá trị lớn nên thời gian
tiến hành thường lâu hơn giao dịch cổ phiếu. Bên cạnh đó một nhà tạo lập thị
trường thông thường dù có vốn lớn đến đâu cũng rất khó có thể đảm bảo tiến hành
được tất cả các giao dịch bằng lượng chứng khoán của mình, và cũng không thể
đảm bảo luôn tìm kiếm được các lệnh đặt đối ứng cần thiết của khách hàng. Do đó
phát sinh ra việc cần có một hình thức tạo lập thị trường thứ hai, đó là các nhà môi
giới-giao dịch nội bộ. Đây là một hình thức tổ chức tồn tại trong các thị trường trái
phiếu và các thị trường OTC sản phẩm phái sinh, những tổ chức này đóng vai trò
như những trung gian giữa các công ty môi giới chính trên thị trường với mục đích
hỗ trợ, thúc đẩy các giao dịch nội bộ giữa các tổ chức này. Đối tượng giao dịch
của họ là các công ty môi giới khác, các nhà môi giới khác, các tổ chức nhận quản
lý danh mục đầu tư, tín thác.
1.2.3 Nhà đầu tư:
Đại đa số các trái phiếu được nắm giữ bởi các hiệp hội như công ty tài chính,
công ty bảo hiểm, quỹ hưu bổng, ngân hàng, quỹ đầu tư và quỹ tương hỗ. Ở Mỹ,
các cá nhân riêng lẻ nắm giữ khoảng 10% thị trường. Đối với họ, việc tham gia
vào thị trường trái phiếu nhằm đa dạng hóa các khoản đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận
tối đa.
Sự có mặt của họ trên thị trường góp phần vào việc phát triển nền kinh tế.
Họ có khả năng huy động vốn nhàn rỗi lớn trong công chúng do đó mà khả
năng giao dịch của họ trên thị trường với mục đích kinh doanh là rất lớn.
Hơn nữa họ có khả năng sử dụng vốn linh hoạt nên vấn đề thu được lợi
nhuận nhiều hơn so với nhà đầu tư cá nhân.
Trong trường hợp chủ thể phát hành bán không hết chứng khoán thì họ có
nhiệm vụ mua hết phần còn lại. Điều này góp phần làm gia tăng tính thanh khoản
cho chứng khoán trên thị trường thứ cấp.
Mặt khác, họ là những người am hiểu các công cụ phòng ngừa tài chính
như hợp đồng quyền chọn, hoán đổi lãi suất hay hợp đồng giao sau, kỳ hạn. Do đó
khả năng việc quản trị rủi ro của họ rất tốt.
Việc thực hiện đầu tư của họ luôn xem xét tính phù hợp về vòng đời tài sản
và khoản nợ liên quan.
1.2.4 Các nhà điều hành thị trường:
Chính phủ có trách nhiệm thiết lập cách đo lường kinh tế vĩ mô và khung
pháp lý tốt nhằm tạo ra môi trường phát triển lành mạnh.
Nhà quản lý thị trường vốn đảm bảo sự an toàn cho nhà đầu tư qua việc
cung cấp các chứng khoán theo từng ngành. Họ là ngân hàng trung ương, thực
hiện việc giám sát hoạt động thị trường, phát hiện trường hợp gian lận trong giao
dịch để cảnh báo cho nhà đầu tư, ổn định thị trường.
Sở giao dịch chứng khoán: cung cấp nơi giao dịch cho các chứng khoán đã
phát hành và thúc đẩy việc niêm yết các đợt phát hành mới.
1.3 Thị trường trái phiếu đối với sự phát triển kinh tế:
1.3.1 Vai trò của thị trường trái phiếu đối với doanh nghiệp:
Thị trường nợ doanh nghiệp như là một kênh liên kết những khoản tiền tiết
kiệm của xã hội để thực hiện các cơ hội đầu tư, thể hiện các thông tin về công ty
giúp đánh giá nguồn huy động nhanh hơn. Lợi ích của thị trường trái phiếu mang
lại lợi ích cho nhà phát hành:
Giảm việc quá phụ thuộc vào những khỏan vay ngân hàng
Giảm sự quá lệ thuộc vào nguồn quỹ nứơc ngòai (dòng vốn có thể rủi ro,
hạn chế lãi súât bởi những rủi ro tín dụng trong nước -limited interest in local
credit risk).
Công ty phát hành trái phiếu để tài trợ cho họat động kinh doanh, đa dạng
hoá nguồn huy động và thể hiện các thông tin về công ty giúp đánh giá nguồn huy
động nhanh hơn. Hầu hết các doanh nghiệp vay tiền từ ngân hàng, nhưng nhìn trực
diện việc vay tiền từ ngân hàng hạn chế và tốn chi phí hơn việc phát hành nợ trên
thị trừờng mở hay chính là phát hành trái phiếu. Chi phí vay tiền trưc tiếp từ ngân
hàng còn hạn chế đối với một số công ty. Thông thường, các giám đốc tài chính
xem ngân hàng như nhà cho vay của phương tiện tài trợ cuối cùng do các bản khế
ước nợ hạn chế. Các bản khế ước là những nguyên tắc nợ đựơc thiết kế nhằm giúp
ổn định hoạt động doanh nghiệp và làm giảm rủi ro mà ngân hàng gánh chịu khi
nó cấp hạn mức vay lớn cho một công ty. Ngân hàng đưa ra những hạn chế nhiều
hơn khi công ty vay và hòan trả nợ bằng cách phát hành trái phiếu. Ngoại trừ một
vài nước châu Á như Hàn Quốc, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển
ở hầu hết các thị trường mới nổi. Những nhà đầu tư về trái phiếu và những loại có
liên quan làm tốt hơn những người tham gia vào ngân hàng khi quyết định công ty
nào để huy động và trong phạm vi nào- và vì thế sẽ ngăn chặn nền kinh tế rơi vào
cuộc khủng hỏang. Bởi vì những yếu tố như chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa
và những chính sách có liên quan đến kiểm sóat vốn rõ ràng có ảnh hưởng đến nền
kinh tế.
Một thị trường trái phiếu phát triển sẽ kết hợp với một thị trường có chức
năng tốt bởi các công cụ phái sinh về lãi súât và rủi ro tiền tệ được phòng ngừa
một cách nhanh chóng.
Việc phân bổ tín dụng lệch hướng và việc thiếu thị trường trái phiếu DN phát
triển cũng gây trở ngại cho những ngành và các công ty không có triển vọng để
vay mượn nước ngòai với các khỏan vay có thể hòan trả bằng ngọai tệ. Khi lòng
tin vào đồng nội tệ bắt đầu mất dần, việc tranh giành những nguồn quỹ nước ngòai
của những người đi vay thường dẫn đến khủng hỏang kinh tế.
1.3.2 Vai trò của thị trường trái phiếu đối với chính phủ:
Vì thị trường trái phiếu phát triển là một thành phần quan trọng của toàn bộ
thị trường vốn trong nước, thị trường trái phiếu rất cần thiết khi huy động vốn cho
các dự án hạ tầng, vài nhu cầu đầu tư cơ bản của quốc gia có thể bị trì hõan hay
huy động vốn không đủ khi không có sự cân đối thích hợp.
Thị trường trái phiếu một khi không đủ qui mô cũng như không tách rời với
sự can thiệp của chính phủ sẽ dẫn đến hai ảnh hưởng chủ yếu:
Thứ nhất, ảnh hưởng của chính sách phân bổ tín dụng sai lầm của chính phủ
sẽ có xu hướng khuếch đại. Chính phủ muốn gây ảnh hưởng đối với hướng phát
triển và tăng trưởng của nền kinh tế, chính vì vậy xem xét sự kiểm sóat mạnh
thông qua hệ thống ngân hàng là cách hữu hiệu nhất. Những dự án được xem như
là hi vọng của quốc gia có thể sẵn sàng được huy động vốn bằng cách bổ sung
những ưu đãi thích hợp và biện pháp bắt buộc.
Thứ hai, việc vắng thị trường trái phiếu có qui mô lớn sẽ làm tăng thêm sự
bất hòan hảo trong bất kỳ hệ thống tài chính nào. Chính phủ luôn muốn ưu tiên
phân bổ tín dụng dẫn đến gánh nặng của việc cho các doanh nghiệp vay được đảm
nhận bởi hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng qui mô lớn trở nên dồi dào
nguồn vốn, dẫn đến các tiêu chuẩn lỏng lẻo và những tiêu chuẩn đầu tư nới lỏng.
Những khoản vay vượt mức dẫn đến vượt mức khả năng sản xuất, làm cho súât
sinh lợi trên nguồn vốn đầu tư thấp hơn, làm cho nhiều khỏan tiền cho vay vựơt
quá khả năng chi trả và trở thành nợ xấu. Những vấn đề khó khăn về đạo đức, sự
bất hòan hảo, thiếu minh bạch về kế tóan và trong nhiều trường hợp việc đồng lõa
cùng chính phủ có thể trì hõan những phương pháp cần thiết mãi đến khi cuộc
khủng hỏang thực sự bùng nổ. Do đó khủng hỏang kinh tế có thể xảy ra bất cứ lúc
nào.
Thị trường trái phiếu có tiềm năng mở rộng nhanh trong vài năm đầu. Ở khía
cạnh cung, việc cải tổ mới được tiến hành bởi kế hoạch 5 năm bắt đầu vào năm
2006. Vấn đề này sẽ được tiến hành bởi việc chi tiêu công để xây dựng cơ sở vật
chất, đầu tư chủ yếu vào giáo dục và thiết lập hệ thống phúc lợi chung cũng hệ
thống hưu bổng chung. Việc huy động tài chính của các khoản nợ chung tăng theo
thị trường sẽ đẩy mạnh việc cung các trái phiếu chính phủ. Về khía cạnh nhu cầu,
việc tăng từ từ về thu nhập hộ gia đình, qui mô mở rộng dân số trong độ tuổi lao
động và tập hợp tất cả khoản tiết kiệm dự định đa dạng hoá, tất cả đều dẫn đến nhu
cầu về các trái phiếu. Vấn đề này trở thành chủ điểm để phát triển thị trường vốn
rộng và sâu.
Phát triển một thị trường repo về trái phiếu chính phủ rất cần thiết để tạo điều
kiện dễ dàng cho arbitrage và tăng tính thanh khoản ở thị trường. Vì theo hiện nay,
thị trường repo liên ngân hàng có xu hướng ngắn hạn, thường dựa vào qua đêm là
chủ yếu.
1.3.3 Vai trò của thị trường trái phiếu đối với nhà đầu tư:
Nhà đầu tư bao gồm những công ty bảo hiểm, quỹ hưu bổng, nhà quản lý tài
sản, nhà môi giới và những ngân hàng. Họ đầu tư vào trái phiếu với nhiều mục
đích:
Đa dạng hoá danh mục đầu tư để giảm rủi ro tổng thể.
Làm cho khoảng thời gian của tài sản và nợ tương thích nhau.
Bổ sung đầy đủ những tiêu chuẩn được thiết lập bởi chính sách phân bổ tài
sản.
Góp phần phát triển thị trường vốn trong nước.
Tăng cơ hội đầu tư vào những loại công cụ đầu tư khác nhau.
Tăng cơ hội nhận được phần bù tỷ súât sinh lợi so với khoản tiền gửi tại
ngân hàng.
Nhà đầu tư cần càng nhiều tài sản dài hạn để giảm rủi ro lãi súât
Cần súât sinh lợi cao hơn từ những khỏan tín dụng dài hạn hơn và được đa
dạng hóa.
Nếu thị trường trái phiếu trong nước không phát triển, những nhà đầu tư tổ
chức có thể chỉ nắm giữ những giấy tờ có giá trong ngắn hạn. Những quỹ hưu
bổng ở vài nước có ưu đãi khi nắm giữ những giấy tờ ngắn hạn, những công cụ thị
trường tiền tệ có thể được giao dịch dễ dàng hơn những giấy tờ trong dài hạn.
Những nhà đầu tư dài hạn không có cùng nhu cầu thanh khoản như những người
tham gia khác ở thị trường tài chính.Chẳng hạn như họ sẽ giao dịch bằng cách mua
những trái phiếu không có tính thanh khoản với giá tương đối rẻ và bán những trái
phiếu có tính thanh khoản cao hơn. Hoạt động này làm cho thị trường trái phiếu
càng có tính thanh khoản hơn.
Một điều kiện trước tiên để thị trường trái phiếu phát triển là nó phải độc lập
với sự can thiệp của chính phủ. Những nhà đầu tư phải cảm thấy độc lập khi đưa
ra những quyết định của họ về tiêu chuẩn đơn thuần về kinh tế, như là lãi súât
mong đợi và rủi ro. Áp lực đối với nhà đầu tư trái phiếu hay giá cả trái phiếu dựa
trên chính sách ngành, cả trực tiếp và gián tiếp đều phải hiện diện.
Những thị trường trái phiếu chính phủ sâu và có tính thanh khoản sẽ cung
cấp một đường cong tỷ suất sinh lợi, đường cong này sẽ cung cấp điểm chuẩn cho
việc tái cân bằng danh mục năng động. Khi đa dạng hoá tài sản, lãi súât phi rủi ro
tại mỗi kỳ đáo hạn thiết lập một điểm chuẩn để định giá rủi ro tín dụng. Nhiệm vụ
đó được giảm để xác định phạm vi biên độ của khoản vay phi rủi ro tại mỗi kỳ đáo
hạn. Việc sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng sẽ cho phép chia nhỏ biên độ
giữa các yếu tố cơ bản của rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro được
gắn với những hợp đồng cụ thể và thậm chí là khác nhau về thuế.
Phát triển thị trường trái phiếu cũng là một bước để liên kết thị trường vốn
trong nước với thị trường toàn cầu. Một thị trường trong nước hiệu quả là điều
kiện trước tiên cho giai đoạn kiểm soát vốn an toàn. Các ngân hàng thương mại sẽ
có thể cung cấp những công cụ phòng ngừa cho các hoạt động giao dịch nước
ngoài và giúp các nhà đầu tư dễ dàng hơn khi đa dạng hoá khi đầu tư ra nước
ngoài. Trái lại, sẽ có thể vay mượn ở nước ngoài bằng đồng nội tệ, giảm sự lệ
thuộc đồng USD. Với một tài khoản vốn đa dạng hoá và mở rộng hơn, sẽ có thể
chuyển đến một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn.
Tóm lại, thị trường trái phiếu một khi phát triển sẽ làm tăng sự minh bạch về
kế toán, xuất hiện nhiều nhà phân tích tài chính, những tổ chức đánh giá về tín
dụng, một phạm vi rộng về những chứng khoán nợ và những công cụ phái sinh đòi
hỏi phân tích tín dụng phức tạp, những thủ tục hiệu quả về tính thanh khoản và tái
cấu trúc doanh nghiệp khi công ty không có khả năng thanh toán khi đến hạn. Để
thị trường trái phiếu phát triển thì hệ thống báo cáo tài chính cho các công ty cần
phải có liên quan, đúng thời gian và đáng tin cậy.
1.3.4 Vai trò của ngân hàng đối với sự phát triển thị trường trái phiếu:
Trong những hệ thống tài chính phát triển, huy động tài chính bằng trái phiếu
và tín dụng ngân hàng luôn đầy đủ. Những hệ thống tài chính châu Á thì chủ yếu
thiên về những ngân hàng. Đặc điểm này là do sự phát triển quá nhanh của chính
phủ về việc nắm giữ tiền tiết kiệm quá nhiều. Chính phủ đã nhận ra rằng thật là
thuận tiện để tạo điều kiện cho những ngân hàng thương mại mở rộng hệ thống chi
nhánh. Bằng cách này, những ngân hàng cũng có thể dùng tiền tiết kiệm từ xa và
mở rộng khoản vay với mức lãi súât ổn đinh ở cả khu vực tư và nhà nước trong
nền kinh tế đóng. Mức độ đầu tư cao, dẫn đến sự phát triển vững mạnh, có thể huy
động tài chính với chi phí tối thiểu. Ở những hệ thống này, những ngân hàng được
bảo vệ chống lại sự cạnh tranh từ thị trừơng vốn. Việc p