Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu phát triển như vũ bão, đòi hỏi sự lỗ lực vươn lên không ngừng của các nước kém phát triển để bắt kịp nhịp độ phát triển chung của thế giới. Trên thực tếđã cho thấy rằng cùng với sự nỗ lực phát triển kinh tế là vấn đề môi trường đãđên mức báo động, đặc biệt làở các nước nghèo. Tại các nước này để phát triển kinh tế họđã vàđang xâm phạm sâu sắc đến môi trường tự nhiên bắt nguồn từ các hoạt đồn khai thác tài nguyên quá mức, động thời xả thải vào môi trường một lượng lớn chất thải ít hoặc không hềđược qua một khâu xử lý nào. Đứng trước tình trạng đóđòi hỏi chúng ta phải có những công cụ và biện pháp hữu hiệu để làm giảm bớt các tác động tiêu cực tới môi trường sinh thái và môi trường sống của con người. Trong thực tiễn cho thấy rằng các công cụ kinh tế là một trong các công cụ hữu hiệu nhất đãđược các nước phát triển áp dụng và thu được hiệu quả cao trong quản lý môi trường.
Ở Việt Nam hiện nay có thể nói rằng vấn đề môi trường đã là một vấn đề thời sự nóng bỏng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước. Ngày nay cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu đòi hỏi chúng ta phải có những lỗi lực phát triển, để nhanh chóng thoát ra khỏi đói nghèo, đưa nền kinh tế bắt kịp mặt bằng chung của khu vực và thế giới. Tuy nhiên cùng với những lỗi lực phát triển ấy là vấn đề môi trường đang bịđe doạ nghiêm trọng, lợi ích kinh tếđã làm lu mờđi ý thức bảo vệ môi trướng đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Đã gây lên những mâu thuẫn gay gắt trên con đường phát triển của đất nước, giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế. Trong đó hàng loạt các vấn đề môi trường đặt ra như: sự cạn kiệt nguồn tài nguyên, tình trạng xả thải trực tiếp không qua xử lý, sự suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường nước và môi trường không khí .đã có những ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất và sinh hoạt của đời sống kinh tế xã hội. Đứng trước những thách thức đóđòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải có những biện pháp quản lý thích hợp để dung hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Trong đó công cụ kinh tếđã bắt đầu được quan tâm áp dụng trong quản lý môi trường bước đầu áp dụng đã mang lại những kết quả nhất định. Trong các biện pháp kinh tếđang được áp dụng ở Việt Nam thì phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp đãđược triển khai áp dụng trong hai năm trở lại đây đã thu được nhiều kết quả trong quản lý giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước. Tuy nhiên việc tính phí nước thải công nghiệp hiện nay ở Việt Nam còn ở mức độ sơ khai nên chưa phát huy được hết hiệu quả của nó. Trong việc tính và thu phí còn nhiều bất cập. Chính vì thế tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu là:”Mô hình tính phí nước bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp cho một số cơ sở dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội.”
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu xây dựng lại công thức tính phí nước thải công nghiệp và tính phí thử cho một số cơ sở dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội.Đề tài nghiên cứu gồm ba chương:
chương I: Cơ sở lý luận chung của việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường.
Chương II: Hiện trạng môi trường nước thải công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương III: Mô hình tính phí nước thải công nghiệp cho một số cơ sở dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội
Các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra.
Phương pháp mô hình hoá
Phương pháp phân tích số liệu.
95 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình tính phí nước bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp cho một số cơ sở dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mởđầu
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu phát triển như vũ bão, đòi hỏi sự lỗ lực vươn lên không ngừng của các nước kém phát triển để bắt kịp nhịp độ phát triển chung của thế giới. Trên thực tếđã cho thấy rằng cùng với sự nỗ lực phát triển kinh tế là vấn đề môi trường đãđên mức báo động, đặc biệt làở các nước nghèo. Tại các nước này để phát triển kinh tế họđã vàđang xâm phạm sâu sắc đến môi trường tự nhiên bắt nguồn từ các hoạt đồn khai thác tài nguyên quá mức, động thời xả thải vào môi trường một lượng lớn chất thải ít hoặc không hềđược qua một khâu xử lý nào. Đứng trước tình trạng đóđòi hỏi chúng ta phải có những công cụ và biện pháp hữu hiệu để làm giảm bớt các tác động tiêu cực tới môi trường sinh thái và môi trường sống của con người. Trong thực tiễn cho thấy rằng các công cụ kinh tế là một trong các công cụ hữu hiệu nhất đãđược các nước phát triển áp dụng và thu được hiệu quả cao trong quản lý môi trường.
Ở Việt Nam hiện nay có thể nói rằng vấn đề môi trường đã là một vấn đề thời sự nóng bỏng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước. Ngày nay cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu đòi hỏi chúng ta phải có những lỗi lực phát triển, để nhanh chóng thoát ra khỏi đói nghèo, đưa nền kinh tế bắt kịp mặt bằng chung của khu vực và thế giới. Tuy nhiên cùng với những lỗi lực phát triển ấy là vấn đề môi trường đang bịđe doạ nghiêm trọng, lợi ích kinh tếđã làm lu mờđi ý thức bảo vệ môi trướng đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Đã gây lên những mâu thuẫn gay gắt trên con đường phát triển của đất nước, giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế. Trong đó hàng loạt các vấn đề môi trường đặt ra như: sự cạn kiệt nguồn tài nguyên, tình trạng xả thải trực tiếp không qua xử lý, sự suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường nước và môi trường không khí….đã có những ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất và sinh hoạt của đời sống kinh tế xã hội. Đứng trước những thách thức đóđòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải có những biện pháp quản lý thích hợp để dung hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Trong đó công cụ kinh tếđã bắt đầu được quan tâm áp dụng trong quản lý môi trường bước đầu áp dụng đã mang lại những kết quả nhất định. Trong các biện pháp kinh tếđang được áp dụng ở Việt Nam thì phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp đãđược triển khai áp dụng trong hai năm trở lại đây đã thu được nhiều kết quả trong quản lý giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước. Tuy nhiên việc tính phí nước thải công nghiệp hiện nay ở Việt Nam còn ở mức độ sơ khai nên chưa phát huy được hết hiệu quả của nó. Trong việc tính và thu phí còn nhiều bất cập. Chính vì thế tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu là:”Mô hình tính phí nước bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp cho một số cơ sở dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội.”
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu xây dựng lại công thức tính phí nước thải công nghiệp và tính phí thử cho một số cơ sở dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội.Đề tài nghiên cứu gồm ba chương:
chương I: Cơ sở lý luận chung của việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường.
Chương II: Hiện trạng môi trường nước thải công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương III: Mô hình tính phí nước thải công nghiệp cho một số cơ sở dệt may trên địa bàn thành phố Hà Nội
Các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra.
Phương pháp mô hình hoá
Phương pháp phân tích số liệu.
CHƯƠNG I: CƠSỞLÝLUẬNCHUNGCỦAVIỆCÁPDỤNGCÁCCÔNGCỤKINHTẾTRONGQUẢNLÝMÔITRƯỜNG.
Tổng quan về các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
Các nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng các công cụ kinh tế.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền ( PPP)
Đây là một trong các nguyên tắc quan trọng nhất để làm căn cứ khoa học cho việc thiết lập các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường, được các nước thành viên của tổ chức các nước kinh tế phát triển OECD đưa ra vàđược chấp nhận từ những năm 1970. Theo nguyên tắc người gâp ra ô nhiễm phải trả tiền ( PPP) quy định rằng: Những người gây ra ô nhiễm môi trường phải chịu trách nhiệm về tài chính đối với hậu quả môi trường mà các hoạt động của mình gây ra ( kể cả các hoạt động đó là hợp pháp hay không hợp pháp ). Cũng theo nguyên tắc PPP thì chính phủ sẽ không được tài trợ cho các vấn đề xử lýô nhiễm môi trường, vì nếu Chính phủ trợ cấp sẽ làm tăng việc gây ô nhiễm của các chủ thể hoạt động, mà người gây ô nhiễm phải đóng góp tài chính ( có thể là tiền phí hoặc tiền thuế ) cho chính quyền, số tiền đó sẽđược đưa vào quỹ bảo vệ môi trường và nó sẽđược tái đầu tư cho các công trình môi trường nhằm giảm thiểu ô nhiễm. Một khi các chủ thể hoạt động phải đóng gáp tài chính như vậy họ sẽ phải cân nhắc giữa lợi ích và chi phíđể tứđóđiều chỉnh hành vi hoạt động của mình là có tiếp tục xả thải ra môi trường không qua xử lý và chụi đóng góp tài chính hay làđầu tư một công nghệ xử lý trước khi xả thải và không phài đóng góp tài chính. Chính vì vậy mà mức đóng góp ( trả tiền cho hành vi gây ô nhiễm ) ởđây phải được xác định đúng với giá trị lợi ích thu lại của môi trường hay nói cách khác các chi phí mà họ bỏ ra phải bằng hoặc cao hơn chi phí xử lý hâu quả môi trường do họ gây ra, có như vậy mới khuyến khích các doanh nghiệp hạn chế xả thải và tự nguyện lắp đặt công nghệ xử lý trước khi xả thải.
Tuy nhiên nguyên tắc người gây ra ô nhiễm phải trả tiền cũng không cần thiết phải tạo ra sự công bằng mặc dù nguyên tắc này quy định rằng người gây ra ô nhiễm phải trả tiền, khi đó các chủ thể gây ra ô nhiễm (doanh nghiệp) sẽđối phó bằng cách nâng giá sản phẩm lên và họđẩy chi phí phải trả cho vấn đề môi trường sang người tiêu dùng gánh chịu. Mặt khác nguyên tắc này cũng không cần thiết quy định nghĩa vụ pháp lý về tài chính và nó cũng không phải là thuế môi trường - đó là một số mặt hạn chế của nguyên tắc này. Tuy nhiên nó vẫn được các nước chập nhận rộng rãi là xuất phát từ một lý do kinh tế, các doanh nghiệp áp dụng biện pháp bảo vệ môi trường thường có chi phí cao hơn vì gánh chịu chi phí phòng ngừa hoặc chi phí xử lýô nhiễm dẫn tới giá cả cao hơn đãảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm của họ và như vậy so với các đổi thủ kông áp dụng các biện pháp môi trường hóđã mất đi lợi thế. Đểđảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp này trong hoạt động thương mại khối các nước kinh tế phát triển OECD đã thống nhất áp dụng nguyên tắc này. Và từđó nguyên tắc PPP đã lan truyền vàđược chập nhận rộng rãi trên toàn cầu. Cho tới nay nó vẫn là một trong những nguyên tắc chủ yếu cho việc thiết lập các chính sách môi trường của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là trong khối các nước OECD, thậm chí nguyên tắc này đãđược đưa vào văn bản pháp quy để thực hiện. Ví dụ tại ThuỵĐiển chính phủ thu tiền từ các cơ sở công nghiệp không những để trả cho xử lýô nhiễm mà còn trợ cấp cho công tác quan trắc môi trường.
Đối với các nước đang phát triển, việc áp dụng nguyên tăc PPP gây ra một số bất lợi về mặt kinh tế. Khi các nước này thực hiện đúng thưo nguyên tắc PPP sẽ rất khó có thể cạnh tranh với các nước phát triển giàu có và vấn đề bất công sẽ xảy ra. Tại các nước nghèo họ phải đối mặt với nền kinh tế chậm phát triển vàđi cùng với nó là vấn nạn môi trường, một mặt cũng do các nước phát triển đã gây ra qúa nhiều ô nhiễm cho họ thông qua chuyển giao công nghệ cũ lạc hậu và khai thác tối đa tài nguyên của họ. Đối với các nước giàu có họ có thừa khả năng chi trả cho môi trường còn đối với các nước nghèo thìhoàn toàn không có khả nằng chi trả, trong khi đó họ phải chịu chi phí cho việc gây ra ô nhiễm từ các nước giàu.
Chính vì thế khi áp dụng nguyên tắc này cũng có những điều không hợp lý.Một là khi người giàu gây ra ô nhiễm nhưng lại ép người nghèo phải chịu chi phí. Hai là có những yếu tố môi trường chúng ta không thể mua được bằng tiền hoặc việc định giá nó là rất khó khăn, khi đó việc áp dụng nguyên tắc này sẽ không chính xác trong việc xác định mức phải trả cho chủ thể gây ra hậu quả môi trường.
Để làm rõ hơn nguyên tắc này ta xét một ví dụ trong thực tiễn ở Việt Nam, đó là trường hợp xả thải của khu công nghiệp Thượng Đình vào sông Tô Lịch đã gây ra ô nhiễm nước cho dòng sông gây thiệt hại về kinh tế cho các họ dân sống hai bên bờ sông Tô Lịch. Như vậy khu công nghiệp Thượng Đình đã gây ra ô nhiễm môi trường nhưng lại không mất chi phí cho hành vi gây ô nhiễm của mình. Nếu theo nguyên tắc PPP thì khu công nghiệp Thượng Đình sẽ phải đền bù thiệt hại cho những hộ dân sống ở hai bên bờ sông hoặc là sẽ phải lắp đặt một hệ thống xử lý nước thải trước khi xả thải vào dòng sông hoặc là phải chịu đóng một khoản chi phí cho chính quyền địa phương để họđầu tư cho các công trình môi trường. Và ta giả sử rằng việc thu phí nước thải của khu công nghiệp Thượng Đình làđúng với chi phí mà nhà máy bỏ ra để lắp đặt xử lý nước thải thì khi đó họ sẽđẩy chi phí giá thành sản phẩm lên cao. Như vậy vô hình chung chi phí cho ô nhiễm này sẽđẩy sang người tiêu dùng sản phẩm của khu công nghiệp.
1.1.2.Nguyên tắc người hưởng thụ phải trả tiền ( BPP)
Nếu như nguyên tắc người gây ra ô nhiễm phải trả tiền đòi hỏi các chủ thể gây ra ô nhiễm môi trường phải chịu chi phí cho hậu quả môi trường mình gây ra thì ngược lại nguyên tắc người hưởng thụ phải trả tiền lại cho rằng những người được hưởng lợi từ môi trường phải trả một khoản tiền cho sự hưởng lợi đó. Ta thấy rằng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền mang tính chất khắc phục, xử lý cuối đường ống hậu quả của chủ thể hoạt động gây ra ô nhiễm môi trường thì với nguyên tắc BPP lại mang tính chất phòng ngừa là chính. ởđây người được hưởng thụ môi trường cũng phải trả tiền. Quay trở lại với ví dụ của khu công nghiệp Thượng Đình đã xả thải gây ra ô nhiễm cho dòng sông Tô Lịch, theo nguyên tắc người hưởng lợi tử môi trường phải trả tiền thì những người tiêu thu sản phẩm của khu công nghiệp cũng phải trả một khoản chi phí cho việc cải thiện môi trường nước sông Tô Lịch, và những người sống ở hai bên bờ sông cũng phải đóng góp chi phí cho vấn đề xư lýô nhiễm nước sông.
Thực hiện nguyên tắc BPP trong việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trướng sẽ tạo ra môt khoản thu đáng kể cho quỹảo vệ môi trường. Với ý thức môi trường ngày càng cao và tốc độô nhiễm môi trường nhanh chóng hiện nay thì ngày càng có nhiều người muốn hưởng thụ môi trường trong lành từđó họ sẽ sẵn sàng chấp nhận bỏ ra một khoản chi phí cho việc hưởng thụđó. Tuy nhiên khi thực hiện nguyên tắc này lại không khuyến khích được chủ thể hành động có trách nhiệm bảo vệ môi trường trước hành động của mình, và việc sử dụng nguyên tắc này cũng không được công bằng trong khi có nhiều người không mong muốn trả tiền cho cải thiện môi trường hoặc họ không có khả năng chi trả. Nhưng họ lại vẫn được hưởng ngoại ứng tử việc chi trả của những người sẵn lọng chi trả cho việc hưởng thụ môi trường của họ. Ví dụ khi chúng ta đến khu du lịch Hạ Long thì phải mua vé vào cửa và như vậy tức là chúng ta đã trả chi phí cho việc hưởng thụ cảnh quan môi trường trong lành ở Hạ Long. Với số tiền thu được này các nhà quản lý khu du lịch Hạ Long sẽ dùng nóđể cải thiện và bảo vệ môi trường khu du lịch tránh khỏi những ô nhiễm có thể xảy ra. Nhưng một vấn đềđặt ra là những người sống sở tại họ không hề mất một khoản chi phí nào ( không mất tiền vé) nhưng họ vẫn được hưởng một bầu không khí trong lành và thưởng ngoạn cảnh đẹp.
Trong tương lai nguyên tắc BPP sẽ là một trong những nguyên tắc cơ bản cho các chính sách bảo vệ môi trường. Vì mục đích cuối cùng của nguyên tắc này là hướng tới nhằm bảo vệ môi trường nên nó ngày càng được các nước trên thế giới quan tâm chúý trong công tác quản lý môi trường.
Các loại công cụ kinh tế trong quản lý môi trường:
Công cụ kinh tế được hiểu là những công cụ chính sách nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của những hành động của chủ thể hoạt động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường, áp dụng các công cụ kinh tế làm tăng cường ý thức và trách nhiệm trước việc gây ra ô nhiễm môi trường của các chủ thể hoạt động. Các công cụ kinh tế hoạt động thông qua giá cả, chúng nâng giá của các hành động làm tổn hại môi trường lên hoặc hạ giá của các hành động bảo vệ môi trường xuống. Công cụ kinh tế cũng dành khả năng lựa chọn cho các công ty và các cá nhân ( chủ thể hành động ) tối ưu nhất sao cho phù hợp với điều kiện của họ.
Công cụ kinh tế được xây dựng dựa trên nền tảng của các nguyên tắc PPP và nguyên tắc BPP, kết hợp với các nguyên tắc trong mệnh lệnh và kiểm soát ( CAC ) , biểu hiện thông qua các quy định của pháp luật. Công cụ kinh tế được bảo đảm thực hiện bởi tính tự nguỵên và được hỗ trợ thực thi bằng công cụ pháp lý trong những trường hợp cần thiết. Ví dụ trường hợp áp dụng mức thuế ưu đãi lãi suất vốn vay đối với các dự án thân thiện với môi trường, các nhà đầu tư có thể quyết định đầu tư một công nghệ sạch để được hưởng mức thuế ưu đãi hay là đầu tư một công nghệ bình thường và vay vốn với mức lãi suất bình thường. Trường hợp khác công cụ kinh tế lại mang tính bắt buộc và nó gắn với nghĩa vụ pháp lý như trường hợp thuế ô nhiễm môi trường và phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. ở đây các chủ thể hoạt động có xả thải ra môi trường làm ô nhiễm môi trường sẽ bị cưỡng chế nộp một khoản chi phí cho cơ quan nhà nứơc theo đúng quy định của pháp luật.
Tại sao phải áp dụng cụng công cụ tế trong quản lý môi trường:
Trong lịch sử phát triển kinh tế của toàn cầu đã cho thấy rằng, giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường có mối quan hệ khăng khít gắn bó không thể tách rời. Hay nói cách khác hệ thống môi trường và hệ thống kinh tế là hai bộ phận của một thực thể không thể tách rời. Nền kinh tế không thể hoạt động nếu tách khỏi hệ thống môi trường, hệ thống môi trường đóng vai trò là đầu vào quan trọng cho quá trình hoạt động sản xuất và nó là nơi tiếp nhận mọi đầu ra của hệ kinh tế. Mối quan hệ trên được thể hiện qua sơđồ sau:
Hệ kinh tế
Hãng
Hộ gia đình
Hệ môi trường
( đất, nước, không khí, sinh vật,…)
Trước đây trong quản lý môi trường các nước trên thế giới chỉ sử dụng những quy định pháp lý để điều chỉnh hành vi liên quan tới môi trường hầu nhưđã không đạt được hiệu quả như mong muốn. Mặt khác các tổ chức môi trường thường xuyên thiếu nguồn ngân sách để hoạt động, cũng như các vấn đề môi trường đòi hỏi một nguồn kinh phí lớn đôi khi năng lực tài chính của một quốc gia cũng không thể đáp ứng được. Mặt khác khi áp dụng các tiêu chuẩn pháp lý đơn thuần đôi khi qua cứng nhắc, thiếu tính linh hoạt trong quản lý môi trường. Để giải quyết vấn đề này các công cụ kinh tế đã ra đời và được sử dụng trong quản lý môi trường, bước đầu đã mang lại những kết quả to trong lỗ lực hạn chế sự ô nhiễm môi trường xuống mức tối đa có thể. Khi áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường làm tăng hiệu quả chi phí , việc sử dụng giá cả để làm thước đo cho mọi hoạt động liên quan tới môi trường đã làm cho các công ty tìm kiếm được mức chi phí hiệu quả nhất trong khả năng lựa chọn của họ.Một điều nữa là khi áp dụng các công cụ kinh tế sẽ khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới các dây chuyền công nghệ cũ kỹ lạc hậu bằng các công nghệ thân thiện với môi trường hơn. Các công cụ kinh tế cũng tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp vì nó giúp doanh nghiệp tính toán được mức chi phí tối ưu nhất trong việc xử lý ô nhiễm môi trường.
Trong ngày nay, việc kết hợp giữa các yếu tố pháp lý vào trong các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường đã và đang mang lại nhiều hiệu quả to lớn trên con đường phát triển bền vững của nền kinh tế của các quốc gia và toàn cầu.
Thuế và phí bảo vệ môi trường:
Tiền thuế và tiền phí là một trong những loại công cụ kinh tế phổ biến và được áp dụng rộng rãi nhất trên toàn cầu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói chung và lĩnh vực quản lý kinh tế nói chung. Thuế và phí môi trường mang tính pháp lý cao được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật. Bản chất của tiền thuế và tiền phí là làm tăng thêm cái giá phải trả co những hoạt động mà chúng tham gia vào việc cản trở mục tiêu bảo vệ môi trường và thu nhập của xã hội. Trong tiền thuế và tiền phó có thể chia chi tiết thành các khoản thuế và phí khác nhau ví dụ: thuế cho sản phẩm đầu vào, thuế cho sản phẩm đầu ra, thuế đánh vào người sản xuất hay người tiêu dùng….Trong thực tế thì tiền thuế và tiền phí là hai công cụ kinh tế hữu hiệu nhất trong quản lý môi trường. Đồng thời đây cũng là một trong các nguồn thu chủ yếu cho quỹ ảo vệ môi trường của các quốc gia. Khi các công cụ thuế và phí môi trường được áp dụng sẽ có hiệu quả răn đe và mang tính giáo dục cao đối với các chủ thể gây ô nhiễm môi trường. Tuỳ thuộc vào mức thuế suất cao hay thấp mà mức độ điều chỉnh hành vi gây ô nhiễm của các chủ thể hành động là nhiều hay ít theo sự mong muốn của các nhà quản lý.
Ví dụ về một số loại phí và thuế thường được sử dụng:
+ Tiền phí trả cho mỗi tấn BOD hoặc SO2 thải ra môi trường.
+ Tiền thuế cacbon
+Tiền thuế đánh vào việc sử dụng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu.
+ Lệ phí sử dụng nước,
+ Lệ phí lấp hố rác…
Các chương trình thương mại:
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu, thì xu thế đối thoại đang trở lên là mối quan tâm hàng đầu cùa các doanh quốc gia và các doanh nghiệp. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng tới lợi ích kinh tế cao nhất có thể. Trong kinh doanh ngày nay không chỉ có chất lường sản phẩm là trên hết mà vấn đề danh tiếng, uy tín trên thương trường cũng là mối quan tâm rất lớn trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó các chương trình thương mại sẽ có vai trò tích cực đối với việc điều chỉnh hành vi của chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chương chình thương mại có liên quan đến bảo vệ môi trường được phản ánh thông qua nhiều hình thức khác nhau nó có thể là:
Giấy phép phát thải.
Tiền trợ cấp tiêu thụ sản phẩm hoặc sản xuất.
Chứng nhận giảm phát (CER) thải có thể mua bán.
Một trong các hình thức thương mại phổ biến hiện nay được sử dụng trong quản lý môi trường đó là chứng nhận giảm phát thải có thể trao đổi mua bán trên thị trường. Đây là hình thức thương mại chủ yếu đựơc áp dụng ở hầu hết các quốc gia phát triển hiện nay. Và đặc biệt nó đã được đưa vào nghị định thư kyôto như là một trong ba biện pháp giảm thải trong cam kết của nghị định thư nhằm làm giảm thiểu hiệu ứng nhà kính thông qua chứng nhận giảm phát thải được công nhận( các nước có thể thoả thuận với nhau để đi đến việc trao đổi mua bán các chứng nhận giảm phát thải này). Ví dụ trong cơ chế phát triển sạch, bên tham gia ở đây là một nước phát triển đầu tư một công nghệ điện chạy bắng sức gió thay thế cho nhà máy nhiệt điện ở một nước kém phát triển và qua đó họ đã tính toán được lượng khí nhà kính được cắt giảm nhờ công nghệ thay thế này. Và nước phát triển sẽ đước cấp một chứng nhận giảm phát thải nước này có thể đem chứng nhận này bán cho một nước khác tuỳ theo điều kiện phát thải của mình. Hay ta xet một ví dụ khác về trường hợp buôn bán giấy phép xả thải giữa công ty A và B. Giả sử rằng công ty A có sr thừa một lượng giấy phép xả thải ( do công ty A thực hiện đầu tư công nghệ xử lý chất thải ) và công ty B đang thiếu một lượng giấy phép, khi đó hai công ty này có thể thương lượng và B mua của A lượng giấy phép dư thừa đó. Và như vậy A có nguồn thu từ việc bán giấy phép còn B tiếp tục được xả thải. Đồng thời lượng chất thải vẫn được khống chế trong tổng lượng giấy phép mà nhà quản lý phát hành.
Ngoài việc mua bán các giấy phép xả thải trên thị trường còn có thể mua bán nhiều loại giấy phép khác như: giấy phép hoạt động tiêu thụ sản phẩm đặc biệt, giấy phép buôn bán các chất thải độc hại, giáy phép vật nuôi trên sông…
Hệ thống đặt cọc hoạn trả:
Hệ thống đặt cọc hoàn trả là việc ký quỹ một số tiền cho các sản phẩm có tiềm năng gây ô nhiễm môi trường, hoặc là đặt cọc cho một hoạt động kinh tế có khả năng ảnh hưởng lớn tới môi trường. Nếu các sản phẩm được đưa trả các điểm thu hồi qui định theo pháp luật hoặc hoàn trả lại các nhà cung cấp thì tiền ky thác sẽ được hoàn trả lại. Cũng tương tự như vậy các chủ thể hành động khi thực hiện đúng cam kết hoàn nguyên lại môi trường ban đầu thì khi đó ssố tiền ký thac sẽ được ho