Trong những năm gần đây, nước ta đã vươn lên đứng thứ 2 trong số những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới (chỉ sau Thái Lan). Sản lượng lúa gạo sản xuất ngày càng tăng lên không những đáp ứng được nhu cầu của chương trình an ninh lương thực quốc gia mà còn có thể xuất khẩu với số lượng lớn. Trong giai đoạn 1995 – 2004, sản lượng lúa tăng bình quân khoảng 4,1%/năm. Mỗi năm cung cấp khoảng 16 – 28 triệu tấn gạo cho tiêu dùng nội địa và khoảng 3 – 4 triệu tấn cho xuất khẩu. Với gần 80% lao động sống ở khu vực nông thôn và tham gia sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa. Có thể nói vấn đề sản xuất và tiêu thụ lúa gạo luôn là một trong những vấn đề được Chính phủ quan tâm hàng đầu, coi đó là một hướng đi để phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, gạo luôn là một trong mười mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước ta. Tuy nhiên trong những năm gần đây trước tình hình hội nhập kinh tế thế giới mặt hàng gạo xuất khẩu nước ta gặp phải những khó khăn nhất định. Trước hết là sự cạnh tranh gay gắt giữa những quốc gia xuất khẩu gạo và sau nữa là những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và giá cả của các quốc gia nhập khẩu gạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo hiện nay chúng ta gặp một số khó khăn bất ổn đó là tình trạng gạo của nước ta xuất sang thị trường nước khác thường không được đánh giá cao về chất lượng, vì vậy giá gạo của nước ta trên thị trường thế giới thấp hơn so với gạo cùng loại của nước khác (Thái Lan). Hơn nữa nước ta chủ yếu xuất khẩu thô lúa gạo do trang thiết bị chế biến còn lạc hậu, trước tình hình đó Chính phủ đã có những giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường lúa gạo cả trong và ngoài nước, một số giải pháp có thể kể đến như: quy hoạch các vùng trồng lúa chất lượng cao, hỗ trợ vốn và kĩ thuật cho người nông dân, quy định mức giá sàn trong thu mua lúa gạo, thành lập các chợ đầu mối buôn bán gạo, xúc tiến thương mại với các tổ chức và quốc gia khác nhằm kí những hợp đồng xuất khẩu gạo có giá trị, Tất cả những hoạt động này đã mang lại những hiệu quả tích cực nhất định và đang dần dần bình ổn thị trường xuất khẩu gạo nước ta. Với mong muốn tìm hiểu thực trạng thị trường xuất khẩu lúa gạo hiện nay và những giải pháp nhằm phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Chính phủ, nhằm tăng cường hiểu biết, áp dụng những kiến thức đã học của mình để có thể đề xuất những giải pháp riêng nên tôi đã chọn đề tài “Mở rộng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu gạo Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới
Chương II: Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian qua.(1989 – 2005)
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam đến năm 2010
Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài không tránh khỏi sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của Thầy giáo cùng các Cán Bộ trong Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam để bài viết được hoàn thiện hơn.
Trong quá trình thực tập và nghiên cứu hoàn thiện đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn chỉ bảo tận tình của Thầy giáo: ThS. Vũ Cương và cán bộ hướng dẫn thực tập TS. Đặng Phúc(Phòng kế hoạch - Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn)
Với tấm lòng trân trọng nhất tôi xin chân thành cảm ơn!
102 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH
Đồng bằng sông Hồng
BTB
Bắc Trung Bộ
NTB
Nam Trung Bộ
TN
Tây Nguyên
ĐNB
Đông Nam Bộ
MNPB
Miền núi phía Bắc
HTX
Hợp tác xã
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
CEPT
Hiệp định ưu đãi thuế quan
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
NN&PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
KHCN
Khoa học công nghệ
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
EU
Liên minh châu Âu
FAO
Tổ chức nông lương thế giới
USDA
Bộ nông nghiệp Mỹ
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
TT
TÊN BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 2.1
Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 1989 – 2005.
Biểu đồ 2.1
Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1989 -2995
Biểu đồ 2.2
Sự biến động của giá xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu gạo giai đoạn 1989 -2005
Biểu đồ 2.3
Diễn biến giá gạo 5%, 25% của Thái Lan và Việt Nam
Bảng 2.2
Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam (2002- 2004)
Bảng 2.3
So sánh gạo xuất khẩu của Việt Nam so với các đối thủ
cạnh tranh lớn
Bảng 3.1
Cung và cầu gạo thế giới, thống kê và dự báo
Bảng 3.2
Dự báo mức tiêu thụ gạo của thế giới tới năm 2010 của USDA
Bảng 3.3
Dự báo các nước nhập khẩu gạo thế giới tới năm 2010
Bảng 3.4
Dự báo các nước xuất khẩu gạo thế giới tới năm 2010
Bảng 3.5
Dự báo thị trường gạo Việt Nam giai đoạn 2001-2010
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, nước ta đã vươn lên đứng thứ 2 trong số những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới (chỉ sau Thái Lan). Sản lượng lúa gạo sản xuất ngày càng tăng lên không những đáp ứng được nhu cầu của chương trình an ninh lương thực quốc gia mà còn có thể xuất khẩu với số lượng lớn. Trong giai đoạn 1995 – 2004, sản lượng lúa tăng bình quân khoảng 4,1%/năm. Mỗi năm cung cấp khoảng 16 – 28 triệu tấn gạo cho tiêu dùng nội địa và khoảng 3 – 4 triệu tấn cho xuất khẩu. Với gần 80% lao động sống ở khu vực nông thôn và tham gia sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa. Có thể nói vấn đề sản xuất và tiêu thụ lúa gạo luôn là một trong những vấn đề được Chính phủ quan tâm hàng đầu, coi đó là một hướng đi để phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta. Thực tế những năm vừa qua cho thấy, gạo luôn là một trong mười mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước ta. Tuy nhiên trong những năm gần đây trước tình hình hội nhập kinh tế thế giới mặt hàng gạo xuất khẩu nước ta gặp phải những khó khăn nhất định. Trước hết là sự cạnh tranh gay gắt giữa những quốc gia xuất khẩu gạo và sau nữa là những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và giá cả của các quốc gia nhập khẩu gạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo hiện nay chúng ta gặp một số khó khăn bất ổn đó là tình trạng gạo của nước ta xuất sang thị trường nước khác thường không được đánh giá cao về chất lượng, vì vậy giá gạo của nước ta trên thị trường thế giới thấp hơn so với gạo cùng loại của nước khác (Thái Lan). Hơn nữa nước ta chủ yếu xuất khẩu thô lúa gạo do trang thiết bị chế biến còn lạc hậu, trước tình hình đó Chính phủ đã có những giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường lúa gạo cả trong và ngoài nước, một số giải pháp có thể kể đến như: quy hoạch các vùng trồng lúa chất lượng cao, hỗ trợ vốn và kĩ thuật cho người nông dân, quy định mức giá sàn trong thu mua lúa gạo, thành lập các chợ đầu mối buôn bán gạo, xúc tiến thương mại với các tổ chức và quốc gia khác nhằm kí những hợp đồng xuất khẩu gạo có giá trị,…Tất cả những hoạt động này đã mang lại những hiệu quả tích cực nhất định và đang dần dần bình ổn thị trường xuất khẩu gạo nước ta. Với mong muốn tìm hiểu thực trạng thị trường xuất khẩu lúa gạo hiện nay và những giải pháp nhằm phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Chính phủ, nhằm tăng cường hiểu biết, áp dụng những kiến thức đã học của mình để có thể đề xuất những giải pháp riêng nên tôi đã chọn đề tài “Mở rộng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu gạo Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới
Chương II: Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian qua.(1989 – 2005)
Chương III: Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam đến năm 2010
Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài không tránh khỏi sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của Thầy giáo cùng các Cán Bộ trong Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam để bài viết được hoàn thiện hơn.
Trong quá trình thực tập và nghiên cứu hoàn thiện đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn chỉ bảo tận tình của Thầy giáo: ThS. Vũ Cương và cán bộ hướng dẫn thực tập TS. Đặng Phúc(Phòng kế hoạch - Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn)
Với tấm lòng trân trọng nhất tôi xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ THẾ GIỚI
I. Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa
I.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu hàng hóa
I.1.1. Khái niệm
Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là một trong những hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên và cơ bản của các công ty kinh doanh quốc tế. Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động kinh doanh quốc tế của các cá nhân, tập thể doanh nghiệp ở các quốc gia nhằm đưa hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Xuất khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít rủi ro và chi phí thấp. Dưới giác độ kinh doanh thì hoạt động này là việc bán hàng hoá dịch vụ, dưới giác độ là quà tặng, những hoạt động viện trợ thì hoạt động đó chỉ là việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ.
Xuất khẩu còn được hiểu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Đó không chỉ là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức từ bên trong ra đến bên ngoài. Mục đích của việc xuất khẩu là khai thác được thế mạnh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của thương mại quốc tế, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu. Việc trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán sẽ tạo điều kiện cho sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh phạm vi chuyên môn hoá sản xuất. Số sản phẩm thoả mãn nhu cầu con người ngày càng dồi dào và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng lớn.
Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của ngoại thương, đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Cho đến nay, nó đã phát triển rất mạnh mẽ, được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ giới hạn ở hàng hoá hữu hình mà còn mở rộng sang cả hàng hoá vô hình và mặt hàng này chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong mậu dịch quốc tế.
I.1.2. Vai trò
Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển, thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập và có vai trò quyết định đến lợi thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy việc đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ nói riêng là mục tiêu phát triển kinh tế hàng đầu của các quốc gia. Thực tế cho thấy các nước có dự trữ ngoại tệ lớn như Mỹ, Nhật Bản, Đài loan, Singgapo.. đều là những nước có tỷ trọng xuất khẩu lớn trên thế giới. Vì vậy có thể nói thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá dịch vụ là một động lực của sự phát triển kinh tế.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Sức cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao, tăng trưởng kinh tế trở nên ổn định và bền vững hơn nhờ các nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra cơ hội lớn cho tất cả các nước, nhất là những nước đang phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hoa trên cơ sở ứng dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa hoc - công nghệ .
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Hoạt động xuất khẩu còn kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện mức sống của các tầng lớp dân cư. Ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu là nguồn tăng dự trữ ngoại tệ. Dự trữ ngoại tệ dồi dào là điều kiện cần thiết để giúp cho quá trình ổn định nội tệ và chống lạm phát.
Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa cho sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa, tức là xuất khẩu nhưng gì ta có. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự “ thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu rất nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp, không có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hai là, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất, nhằm xuất khẩu những gì mà thị trường thế giới cần. Quan điểm này chính là xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm. Sự tác động này được thể hiện ở chỗ:
Các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đày đủ cho việc phát triển ngành xuất khẩu nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
Xuất khẩu tạo ta khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, nhờ vậy mà sản xuất có thể phát triển và ổn định.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này nhằm nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo nguồn vốn và kỹ thuật công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước để tạo ra một năng lực sản xuất mới.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích ứng được với những thay đổi của thị trường.
Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn hiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh.
+ Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập cao. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Đồng thời xuất khẩu cũng tác động tích cực tới tình độ tay nghề và thay đổi thói quen của những người sản xuất hàng xuất khẩu.
+ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới. Thực tế qua hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta đã cho thấy đóng góp của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế trong những năm qua là rất đáng kể. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ buôn bán với trên 170 quốc gia trên thế giới, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 2,087 tỷ USD năm 1990 lên 15 tỷ USD năm 2001. Bên cạnh đó chúng ta cũng đã từng bước xây dựng được một số mặt hàng có quy mô ngày càng lớn và được thị trường thế giới chấp nhận như: dầu khí, gạo, thuỷ sản, hàng may mặc, cà phê..Việc xây dựng được một số mặt hàng có quy mô lớn nói trên đã cho phép chúng ta khai thác được những lợi thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam và đồng thời cũng tích luỹ được những bài học thực tiễn quan trọng cho việc đổi mới và hình thành cơ cấu xuất khẩu có hiệu quả cho nền ngoại thương Việt Nam trong những năm sau này.
I.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
I.2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức nhà sản xuất trực tiếp giao dịch với khách hàng nước ngoài ở khu vực thị trường nước ngoài thông qua tổ chức của mình.
Các công ty có kinh nghiệm quốc tế thường trực tiếp bán các sản phẩm của mình ta thị trường nước ngoài. Khách hàng của công ty không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng. Những ai có nhu cầu mua sản phẩm của công ty đều là khách hàng của công ty. Để thâm nhập thị trường quốc tế qua hình thức xuất khẩu trực tiếp, các công ty thường sử dụng hai hình thức chủ yếu sau đây:
* Đại diện bán hàng
Đại diện bán hàng là hình thức bán hàng không trên danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người uỷ thác. Đại diện bán hàng được nhận một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị của hàng hoá mà họ bán được. Trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt động như là nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài. Công ty sẽ ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng ở thị trường đó.
* Đại lý phân phối
Đại lý phân phối là người mua hàng hoá của công ty để bán theo kênh tiêu thụ ở khu vực mà công ty phân định. Công ty khống chế phạm vi phân phối, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Đại lý phân phối chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng ở thị trường đã phân định và thu lợi nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
I.2.2. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức khi doanh nghiệp thông qua các dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài.
Các trung gian mua bán chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là: Đại lý, công ty quản lý xuất nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng hoá của công ty nhưng trợ giúp công ty xuất khẩu hàng hoá sang thị trường nước ngoài.
• Đại lý (Agent) là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho một hoặc nhiều nhà xuất khẩu ở thị trường nước ngoài.
Đại lý chỉ thực hiện một công việc nào đó do công ty uỷ thác và nhận thù lao. Đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hoá. Đại lý là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa công ty và khách hàng ở thị trường nước ngoài.
• Công ty quản lý xuất khẩu (Export management company): là các công ty nhận uỷ thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hoá.
Công ty quản lý xuất khẩu hàng hoá hoạt động trên danh nghĩa của công ty xuất khẩu (không phải danh nghĩa của mình) nên là nhà xuất khẩu gián tiếp.
Công ty quản lý xuất khẩu đơn thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu. Bản chất công ty quản lý xuất khẩu là làm dịch vụ quản lý và thu được một khoản thù lao nhất định từ các hoạt động đó.
• Công ty kinh doanh xuất khẩu (Export trading company): là công ty hoạt động như là nhà phân phối độc lập có chức năng kết nối các khách hàng nước ngoài với công ty xuất khẩu trong nước.
Ngoài việc thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến xuất khẩu, các công ty này còn cung ứng các dịch vụ xuất nhập khẩu và thương mại đối lưu, thiết lập và mở rộng các kênh phân phối, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư, thậm chí trực tiếp thực hiện sản xuất để hỗ trợ một công đoạn nào đó cho các sản phẩm ví dụ như bao gói, in ấn ...Các công ty này có thể cung cấp các chuyên gia xuất khẩu cho các công ty xuất khẩu.
• Đại lý vận tải: là các công ty thực hiện các hoạt động thuê vận chuyển và các hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá như khai báo hải quan, các phí giao nhận chuyên chở bảo hiểm.
Các đại lý vận tải này cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và phát triển nhiều loại hình dịch vụ giao nhận hàng hoá đến tận tay người nhận. Khi các công ty xuất khẩu thông qua các đại lý vận tải hay các công ty chuyển phát hành thì các đại lý và các công ty đó cũng làm các dịch vụ xuất nhập khẩu liên quan tới hàng hoá đó. Bản chất các đại lý vận tải hoạt động như các công ty kinh doanh dịch vụ giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí cả dịch vụ bao gói hàng hoá cho phù hợp với phương thức vận chuyển, mua bảo hiểm cho hàng hoá và hoạt động của họ.
I.2.3. Xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức kinh doanh xuất khẩu đang có xu hướng phát triển và phổ biến rộng rãi bởi những ưu điểm của nó mang lại. Đặc điểm của loại hình này là không có sự dịch chuyển ra khỏi biên giới quốc gia của các hàng hoá, dịch vụ. Đó là việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải..., tránh được những rắc rối hải quan, thu hồi vốn nhanh.
I.2.4. Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức mà doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo chỉ tiêu Nhà nước giao cho về một hoặc một số hàng hoá nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký kết giữa hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí tìm kiếm bạn hàng, tránh được rủi ro trong thanh toán.
I.2.5. Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt ra công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy, trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
I.2.6. Xuất khẩu ủy thác
Xuất khẩu uỷ thác là hình thức các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng vai trò trung gian xuất khẩu làm thay cho các đơn vị sản xuất (bên có hàng) những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và được hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã thoả thuận.
Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, ít trách nhiệm, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, đặc biệt không cần bỏ vốn ra để mua hàng song lại được nhận tiền nhanh.
I.2.7. Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Mục đích của xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương.
I.2.8. Tạm nhập tái xuất
Tạm nhập tái xuất là hình thức xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Mục đích là nhằm thu về một số ngoại tệ lớn hơn số vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này gồm ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu (còn gọi là giao dịch tam giác).
Có hai hình thức tái xuất:
Một là, hàng hoá đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của đồng tiền: nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu.
Hai là, hình thức chuyển khẩu: hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu.
I.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa
I.3.1. Yếu tố kinh tế
Thị trường cần có sức mua, cũng như người mua. Sự thay đổi các thông số kinh tế như thu nhập, chi phí sinh hoạt, lãi suất và kết cấu tiết kiệm của một quốc gia có tác động tức thời đến thương trường, các nhà quản trị cần hiểu rõ những khuynh hướng chính yếu diễn ra trong các vấn đề này. Một yếu tố cơ bản để phản ánh kích thước của thị trường tiềm năng đó là dân số, quan trọng hơn nữa họ phải nghiên cứu so sánh tốc độ của GNP tăng so với tốc độ dân số để dự đoán khả năng mở rộng thị trường của quốc gia đó. Kèm theo vấn đề dân số, các nhà nghiên cứu thị trường nước ngoài còn phải chú ý tới mức phân phối theo tuổi, mật độ và sự phân bố ở quốc gia đó cũng như nghiên cứu đặc tính phân phối thu nhập.
Để định hình các yếu cầu về sản phẩm và dịch vụ, công ty kinh doanh quốc tế phải tiến hành cơ cấu công nghi