Đề tài Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hiện nay

Từ khi đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế – xã hội chuyển từ tự cung, tự cấp, kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến hoạt động kinh tế và đời sống xã hội nói chung. Nhờ có sự chuyển biến định hướng đúng đắn có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước, đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao hơn. Cơ chế thị trường đi sâu vào mọi khía cạnh của đời sống, các mối quan hệ của con người đang có sự thay đổi lớn. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng đang chịu những sự tác động từ sự thay đổi đó. Có thể nói gia đình vốn được coi là tế bào của xã hội, nó phản ánh tất cả những gì đang diễn ra ngoài xã hội, các mối quan hệ xã hội của con người đều bắt đầu từ gia đình. Người xưa giải thích về gia đình như sau: “Nhân hữu hằng ngôn giai viết; Thiên hạ quốc gia, thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại nhân” có nghĩa là người ta muốn nói rằng thiên hạ là quốc gia, gốc của quốc gia chính là gia đình, gốc của gia đình là bản thân mỗi cá nhân. Trong tiến trình đổi mới của mình, Việt Nam đang chịu tác tộng mạnh mẽ của những chuyển biến về kinh tế – xã hội ở trong nước và quá trình toàn cầu hoá thì một trong những mục tiêu quan trọng của Đảng và nhà nước là tăng cường sự tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của phụ nữ nhằm nâng cao vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình nói riêng và ngoài xã hội nói chung. Sự phát triển của xã hội sẽ làm vai trò và vị trí của người phụ nữ được nâng lên đáng kể. Phụ nữ đã có quyền bình đẳng so với nam giới. Họ được tự do học hành, được tham gia vào các hoạt động của xã hội theo khả năng của mình, có được quyền bỏ phiếu, ứng cử Tuy nhiên ở nước ta, các yếu tố truyền thống, đặc biệt là tư tưởng nho giáo vẫn còn là một nhân tố đáng kể tác động trực tiếp đến quan niệm và hành vi ứng xử của người dân trong xã hội. Các chuẩn mực xã hội và những lễ giáo phong kiến khiến cho người phụ nữ luôn bị rằng buộc trong gia đình, rơi vào địa vị phụ thuộc, luôn sống bó hẹp trong “tam tòng tứ đức” và có thân phận thấp hèn, không được bình đẳng với nam giới. Nhiều nơi phụ nữ bị đối xử bất công, luôn bị lép vế, lao động cực nhọc, thức khuya dậy sớm, không có tiếng nói trong gia đình, không được tham gia vào các công việc xã hội. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” và tư tưởng coi thường người phụ nữ vẫn còn đang tồn tại dưới nhiều biến thái khác nhau. Chế độ gia trưởng và sự bất bình đẳng thường là những nguyên nhân dẫn đến sự phụ thuộc trong cuộc sống gia đình của người phụ nữ. Định kiến hẹp hòi của xã hội đang bao trùm lên người phụ nữ, gán cho người phụ nữ vai trò nội trợ như là một biểu trưng chung của người phụ nữ, khiến họ không thể tách rời khỏi gia đình, khỏi vai trò nội trợ của mình để tham gia hoạt động xã hội. Bác Hồ đã từng nói “Nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có một nửa”. Quyền bình đẳng thực sự của người phụ nữ theo bác là “người phụ nữ Việt nam đứng ngang hàng với người đàn ông để hưởng mọi quyền công dân”. Thực chất của vấn đề bình đẳng nam nữ được Bác quan tâm là sự bình đẳng không chỉ ở góc độ chính trị mà còn ở góc độ kinh tế, không chỉ ở góc độ nghĩa vụ mà còn là quyền lợi, quyền được đào tạo, học hành, quyền được tham gia lao động xã hội, quản lí xã hội

doc51 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 6236 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế – xã hội chuyển từ tự cung, tự cấp, kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến hoạt động kinh tế và đời sống xã hội nói chung. Nhờ có sự chuyển biến định hướng đúng đắn có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước, đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao hơn. Cơ chế thị trường đi sâu vào mọi khía cạnh của đời sống, các mối quan hệ của con người đang có sự thay đổi lớn. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng đang chịu những sự tác động từ sự thay đổi đó. Có thể nói gia đình vốn được coi là tế bào của xã hội, nó phản ánh tất cả những gì đang diễn ra ngoài xã hội, các mối quan hệ xã hội của con người đều bắt đầu từ gia đình. Người xưa giải thích về gia đình như sau: “Nhân hữu hằng ngôn giai viết; Thiên hạ quốc gia, thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại nhân” có nghĩa là người ta muốn nói rằng thiên hạ là quốc gia, gốc của quốc gia chính là gia đình, gốc của gia đình là bản thân mỗi cá nhân. Trong tiến trình đổi mới của mình, Việt Nam đang chịu tác tộng mạnh mẽ của những chuyển biến về kinh tế – xã hội ở trong nước và quá trình toàn cầu hoá thì một trong những mục tiêu quan trọng của Đảng và nhà nước là tăng cường sự tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của phụ nữ nhằm nâng cao vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình nói riêng và ngoài xã hội nói chung. Sự phát triển của xã hội sẽ làm vai trò và vị trí của người phụ nữ được nâng lên đáng kể. Phụ nữ đã có quyền bình đẳng so với nam giới. Họ được tự do học hành, được tham gia vào các hoạt động của xã hội theo khả năng của mình, có được quyền bỏ phiếu, ứng cử… Tuy nhiên ở nước ta, các yếu tố truyền thống, đặc biệt là tư tưởng nho giáo vẫn còn là một nhân tố đáng kể tác động trực tiếp đến quan niệm và hành vi ứng xử của người dân trong xã hội. Các chuẩn mực xã hội và những lễ giáo phong kiến khiến cho người phụ nữ luôn bị rằng buộc trong gia đình, rơi vào địa vị phụ thuộc, luôn sống bó hẹp trong “tam tòng tứ đức” và có thân phận thấp hèn, không được bình đẳng với nam giới. Nhiều nơi phụ nữ bị đối xử bất công, luôn bị lép vế, lao động cực nhọc, thức khuya dậy sớm, không có tiếng nói trong gia đình, không được tham gia vào các công việc xã hội. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” và tư tưởng coi thường người phụ nữ vẫn còn đang tồn tại dưới nhiều biến thái khác nhau. Chế độ gia trưởng và sự bất bình đẳng thường là những nguyên nhân dẫn đến sự phụ thuộc trong cuộc sống gia đình của người phụ nữ. Định kiến hẹp hòi của xã hội đang bao trùm lên người phụ nữ, gán cho người phụ nữ vai trò nội trợ như là một biểu trưng chung của người phụ nữ, khiến họ không thể tách rời khỏi gia đình, khỏi vai trò nội trợ của mình để tham gia hoạt động xã hội. Bác Hồ đã từng nói “Nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có một nửa”. Quyền bình đẳng thực sự của người phụ nữ theo bác là “người phụ nữ Việt nam đứng ngang hàng với người đàn ông để hưởng mọi quyền công dân”. Thực chất của vấn đề bình đẳng nam nữ được Bác quan tâm là sự bình đẳng không chỉ ở góc độ chính trị mà còn ở góc độ kinh tế, không chỉ ở góc độ nghĩa vụ mà còn là quyền lợi, quyền được đào tạo, học hành, quyền được tham gia lao động xã hội, quản lí xã hội… Ngày nay trong qua trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đã có rất nhiều biến đổi và gia đình cũng đang chịu sự tác động mạnh mẽ của sự chuyển biến đó. Điều đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là sự chuyển đổi về cơ cấu xã hội và cùng với nó là sự phân công lao động. Quá trình tàon cầu hoá, khu vực hoá cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ tiên tiến đã tác động đến các giá trị văn hoá - xã hội ở Việt Nam. Trong những điều kiện kinh tế và môi trường xã hội như hiện nay, qua hệ giới trong gia đình cũng có sự thay đổi tích cực làm chi gia đình được củng cố và phát triển, đem lại hạnh phúc cho các thành viên của nó. Gia đình hạnh phúc sẽ là nguồn dinh dưỡng cho sự ổn định của cộng đồng, cho qua trình phát triển của xã hội. Sự thay đổi trong quan hệ giới như vậy sẽ là biểu hiện trực tiếp xu hướng củng cố, hoàn thiện vị trí và vai trò của giới trong thiết chế gia đình. Sự thay đổi quan hệ giới và tính tất yếu của nó làm cho cả giới nam và giới nữ đều phải tự nhận diện lại bản thân mình, điều chỉnh và thích nghi với nhau trong cả suy nghĩ và hành động. Một trong những hiện tượng quan sát được là trách nhiệm đối với các công việc trong gia đình giờ đây không còn là bổn phận chỉ dành riêng cho giới nữ. Đồng thời việc kiếm tiền nuôi sống gia đình cũng như việc tham gia các quan hệ xã hội bên ngoài gia đình không còn là khoảng trời riêng của nam giới. Người vợ tham gia vào công việc và quan hệ xã hội rộng lớn hơn. Ngược lại, người chồng đã phải chia sẻ bổn phận và trách nhiệm đối với công việc nhà, ngay cả công việc nội trợ vốn trước đây là “quyền bất khả xâm phạm” của nữ giới. Bình đẳng cho phụ nữ là một đòi hỏi cần thiết và thiết thực nhằm đem lại sự giải phóng cho phụ nữ, tạo cho phụ nữ có nhiều cơ hội cùng nam giới tham gia vào các hoạt động xã hội, có được vị trí và chỗ đứng cả trong gia đình và ngoài xã hội. Trong phân công lao động theo giới có những hoạt động công việc khác nhau như: công việc nội trợ, chăm sóc và giáo dục con cái, các công việc ngoài cộng đồng, quyền quyết định chính trong các công việc gia đình… vậy chúng ta nghiên cứu xem sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình diễn ra như thế nào? Có hay không cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực phát triển của gia đình? Liệu đã có những đánh giá công bằng công lao đóng góp trong việc nuôi sống gia đình của người vợ và người chồng chưa? Hay nói cách khác chúng ta đi nghiên cứu xem trong gia đình phụ nữ và nam giới ai làm gì? Ai có gì? Ai được gì? Có sự bất bình đẳng trong phân công lao động không? Để góp phần trả lời những câu hỏi trên tôi chọn đề tài “Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hiện nay” qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn. Từ đó đề ra những khuyến nghị và giải pháp để nâng cao hơn nữa vai trò của người phụ nữ, phát huy hết tiềm năng của họ, góp phần xây dựng một xã hội ngày càng phát triển công bằng và văn minh. 2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thưc tiễn: * Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu đề tài “mối quan hề giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hiện nay” qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn góp phần làm rõ thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng và quyền quyết định chính trong công việc gia đình. Đồng thời làm sáng tỏ một số ly thuyết xã hội học trong việc vận dụng vào nghiên cứu các vấn đề của gia đình nảy sinh trong thực tiễn xã hội. Từ kết quả nghiên cứu, tôi hi vọng đóng góp vào cơ sở lí luận của các chuyên ngành Xã hội học gia đình, Xã hội học về giới… trong việc khẳng định tầm quan trọng của các nghiên cứu giới trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt nhấn mạnh mối tương quan giữa vị trí, vai trò của vợ và chồng trên cơ sở phân tích, nhìn nhận ly giải các vấn đề của sự phân công lao động trong gia đình. * Ý nghĩa thực tiễn Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của các thành viên trong gia đình càng nặng nề thêm. Người phụ nữ ngày càng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong gia đình nhưng xã hội và mỗi người chúng ta chưa thấy rõ vai trò của người phụ nữ, trong nhiều gia đình vẫn còn sự tồn tại bất bình đẳng trong việc phân công lao động. Vì vậy qua nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ giới về phân công lao động trong các gia đình hiện nay” qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn góp phần nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong xã hội về địa vị, vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Hy vọng cung cấp thêm một số thông tin xã hội học cho các nhà hoạch định chính sách, những người quan tâm về vấn đề phân công lao động trong gia đình dưới góc độ giới, từ đó đề ra những chính sách phù hợp, có cách nhìn đúng đắn hơn, toàn diện hơn và có giải pháp thiết thực nhằm phát huy khả năng tích cực của chị em phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới đất nước. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục tiêu nghiên cứu: Với đề tài “Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong các gia đình hiện nay” qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng - thành phố Lạng Sơn, trong khuôn khổ một báo cáo thực tập, tôi đi sâu tìm hiểu một số khía cạnh sau: Mô tả thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng, vai trò quyết định của mỗi giới trên địa bàn nghiên cứu. Đặc biệt tìm hiểu mức độ tham gia của người chồng vào công việc nội trợ của gia đình. Tìm hiểu xu hướng điều chỉnh vai trò giới trong mối quan hệ giữa vợ và chồng. Tìm hiểu những chuyển biến trong vị thế, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và nguyên nhân của sự thay đổi đó. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu bước đầu cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách về quyền bình đẳng giữa nam và nữ, các giải pháp quản lí xã hội, tuyên truyền, giáo dục nâng cao vị thế, vai trò của người phụ nữ. Đồng thời củng cố nhận thức trong việc đánh giá về phụ nữ, tạo mọi cơ hội bình đẳng cho phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn. Đánh giá, kết luận và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu trên, báo cáo xác định một số nhiệm vụ cơ bản sau: + Phân tích sự phân công lao động theo giới đối với công việc nội trợ. + Phân tích sự phân công lao động theo giới đối với công việc chăm sóc gia đình và giáo dục con cái. + Phân tích sự phân công lao động theo giới đối với những công việc mang tính cộng đồng. + Phát hiện và làm rõ sự bất bình đẳng trong phân công lao động theo giới hiện nay ở địa bàn nghiên cứu. + Làm rõ quyền quyết định của mỗi giới trong công việc gia đình. 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hiện nay. * Khách thể nghiên cứu: Các gia đình trên địa bàn của phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn. * Phạm vi nghiên cứu: - Không gian nghiên cứu : 1 phường (phường Hoàn văn Thụ) và 1 xã (xã Hoàng Đồng) thuộc thành phố Lạng Sơn - Thời gian nghiên cứu : 2 tuần (từ 18/04 đến 22/04/2005) 5. Phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận: Báo cáo đã vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như một cơ sở phương pháp luận của toàn bộ quá trình nghiên cứu. Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể bằng cách tiếp cận, nghiên cứu, xem xét vấn đề theo quan điểm tôn trọng giữ gìn và phát huy những nét đẹp, tích cực của quá khứ và xoá bỏ những cái lạc hậu, tiêu cực, không phù hợp với sự biến đổi của xã hội. Vận dụng cơ sở lí luận và phương pháp luận của xã hội học Mác xít nhằm giải thích sự vận động, biến đổi và phát triển của việc phân công lao động, nhất là vấn đề phân công lao động theo giới. Các lí thuyết về giới như : Lí thuyết chức năng giới, lí thuyết xã hội học về giới, lí thuyết cấu trúc – chức năng, lí thuyết tương tác biểu trưng giới, lí thuyết học tập - xã hội, xã hội học gia đình… Cùng với việc vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận của xã hội học Mác xít và các lí thuyết khác, báo cáo cũng vận dụng các chủ trương, đương lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn kiện về đổi mới, về giải phóng phụ nữ được ban hành, những công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước. * Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đại diện: Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát trên đại bàn phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn. Đây là hai nơi có tiêu chí phù hợp với đề tài, vấn đề phân công lao động giữa vợ và chông có nhiều vấn đề phải nghiên cứu, vấn đề này không chỉ xảy ra trong một số hộ mà nó phổ biến trong các hộ ở hai địa điểm này. - Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi: Chúng tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp qua 828 người dân tại các hộ gia đình ở phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn nhằm mục đích đo đạc các khía cạnh định lượng về đối tượng nghiên cứu để thu được những thông tin đặc trưng nhất qua hệ thống những chỉ báo, các số liệu định lượng và các biểu tương quan, tần suất để nhìn nhận và đánh giá tổng thể vấn đề nghiên cứu. Số liệu thu được từ 828 bảng hỏi sẽ được xử lí bằng chương trình SPSS. Số liệu này sẽ làm căn cứ để kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu của đề tài. Cơ cấu mẫu như sau: * Cơ cấu giới tính: - 396 nam (47,8%) - 432 nữ (52,2%) * Cơ cấu tuổi: - Dưới 20 chiếm 2,4% - Từ 21 – 40 chiếm 50,8% - Từ 41 – 60 chiếm 40,8% - Trên 60 tuổi chiếm 5,9% * Cơ cấu dân tộc: - Kinh chiếm 42,4% - Nùng chiếm 20,5% - Tày chiếm 33,5% - Hoa chiếm 3,0% - Khác chiếm 0,6% * Cơ cấu trình độ học vấn: - Không biết chữ chiếm 1,6% - Dưới PTTH chiếm 38,3% - PTTH chiếm 40,1% - Trung cấp, dạy nghề chiếm 9,7% - Cao đẳng, đại học, trên đại học chiếm 10,4% * Cơ cấu nghề nghiệp: - Nông dân chiếm 27,4% - Công nhân chiếm 3,9% - CBCNVC chiếm 9,2% - Buôn bán, dịch vụ chiếm 30,6% - Nghề tự do chiếm 7,7% - Đang đi học chiếm 3,5% - Nghỉ hưu chiếm 9,7% - Nội trợ chiếm 4,5% - Khác chiếm 1,4% - Thất nghiệp chiếm 2,2% - Phương pháp phỏng vấn sâu: Tham gia trực tiếp khảo sát cùng nhóm nghiên cứu, bên cạnh việc phỏng vấn bằng bảng hỏi, tôi đồng thời tiến hành phỏng vấn được 5 trường hợp (3 nữ - 2 nam) để thu thập những chi tiết sâu sắc và cụ thể hơn xoay quanh nội dung đề tài nghiên cứu của mình. Những câu hỏi được sử dụng nhằm làm rõ, chứng minh giả thuyết của đề tài bằng thông tin định lượng thu được từ bảng hỏi lẫn thông tin định tính. - Phương pháp thảo luận nhóm: Nhóm nghiên cứu tiến hành phương pháp thảo luận nhóm để thu thập thông tin cho toàn nhóm, xin y kiến những người tham gia về những vấn đề mà nhóm nghiên cứu quan tâm, nghe họ tranh luận và tiến hành ghi chép, ghi âm lại. - Phương pháp phân tích tài liệu: Báo cáo có sử dụng một số tài liệu có liên quan tới vấn đề phân công lao động: tạp chí xã hội học, các bài báo cáo, số liệu thu được từ 828 bảng hỏi đã được xử lí và một số tài liệu khác có liên quan nhằm bổ sung cho việc thu thập thông tin phục vụ mục tiêu nghiên cứu của đề tài. - Phương pháp quan sát: Phương pháp quan sát được sử dụng kết hợp trong quá trình trực tiếp phỏng vấn bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu nhằm tìm hiểu rõ hơn những thông tin người trả lời và tìm hiểu những nguyên nhân ẩn dấu bên trong những hành vi và thông tin mà người trả lời đưa ra. Việc sử dụng phương pháp này nhằm thu thập các thông tin sơ cấp về thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình. Thông qua tri giác trực tiếp và sử dụng những ghi chép bằng giấy bút, bằng hình ảnh để ghi lại những vấn đề xoay quanh đề tài nghiên cứu. 5. Giả thuyết nghiên cứu Mô hình phân công lao động truyền thống của gia đình vẫn còn được duy trì, người phụ nữ, người vợ vẫn đảm nhiệm công việc nội trợ Trong phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình đã có sự thương lượng vai trò giữa người vợ và chồng trong việc thực hiện các công việc gia đình và xã hội. Đã có sự bình đẳng hơn trong việc quyết định các vấn đề trong gia đình. 7. Khung lí thuyết  Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lí luận Báo cáo này được trình bày trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử : quá trình nhận thức không chỉ dừng lại ở những nhận thức bên ngoài sự vật hiện tượng mà cần phải nhận thức được bản chất bên trong hoặc tính quy luật vốn có của nó. Phải xem xét các hiện tượng xã hội trong mối quan hệ biện chứng với các hiện tượng khác, nghiên cứu phải được xem xét trong tính lịch sử cụ thể để thấy được sự biến đổi mối quan hệ giới trong phân công lao động, tìm ra được bản chất của mối quan hệ giữa nhận thức và hành động thực tế thông qua phân công lao động. Vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đặc biệt coi trọng. Có thể nói bình đẳng toàn diện nam và nữ là lí tưởng mà nhân loại đã theo đuổi nhiều thế kỉ. Chủ nghĩa Mác cho rằng để giải phóng phụ nữ cả trong gia đình và ngoài xã hội phải giải phóng họ khỏi áp bức, bất công, mọi rằng buộc, bất bình đẳng mà chế độ áp bức bóc lột đã quàng lên cổ họ, điều đó chỉ có cách mạng vô sản mới làm được. Để giải phóng phụ nữ Ăngghen cho rằng: phải xoá bỏ chế độ tư hữu, tư nhân về tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu, không thể cột chặt người phụ nữ vào công việc gia đình mà phải đưa họ tham gia vào nền sản xuất xã hội. Xã hội phải giúp phụ nữ giảm nhẹ công việc gia đình. Chỉ khi nào phụ nữ không phải lựa chọn tham gia sản xuất hoặc làm việc nhà, mà họ đồng thời làm tố cả hai việc đó thì địa vị của họ mới được khẳng định. Theo V.I Lênin thì bình đẳng nam nữ không đồng nghĩa với sự ngang bằng theo kiểu phụ nữ tham gia lao động sản xuất với năng suất, khối lượng thời gian và điều kiện lao động như nam giới, bởi “ngay trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng, thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói buộc vì toàn bộ công việc gia đình trút lên vai phụ nữ”. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về bình đẳng nam nữ phát triển lên một tầm cao mới. Theo Bác cần phải quan tâm đến gia đình vì “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội càng tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”. Phụ nữ là một lực lượng rất lớn của gia đình, nhưng khác với nam giới, họ có những đặc điểm sinh lí khác biệt. Bác cho rằng cần phải có sự phân công lao động hợp lí, phải chú y bảo vệ sức khoẻ cho lao động nữ để chị em phát huy tối đa khả năng của mình. * Các phương pháp tiếp cận: Báo cáo sử dụng cách tiếp cận cơ cấu – chức năng trong việc làm rõ vị trí, vai trò của các thành viên trong gia đình để thấy được mối quan hệ tương tác giữa các thành tố của cơ cấu đó, đặc biệt là cơ cấu vai trò giới. Thông qua sự tương tác này chúng ta sẽ đánh giá được việc thực hiện các chức năng của gia đình trong điều kiện hiện nay. E. Durkhiem cho rằng thông qua sự tương tác sẽ tạo ra mô hình biến đổi xã hội, luôn đòi hỏi phải có sự cấu trúc lại mô hình ứng xử. Tuy nhiên sự biến đổi mà ông đề cập đến là trong khuôn khổ của sự ổn định xã hội vì trong tương tác ổn định mới làm cho phát triển diễn ra một cách đúng đắn. Áp dung quan điểm của E.Durkhiem trong phân tích mối quan hệ giới trong báo cáo này là hoàn toàn phù hợp vì thực tế mối quan hệ giới trong các gia đình không phải là sự đảo ngược vai trò mà là sự điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của mỗi giới vì sự ổn định và phát triển của gia đình. Vào thập kỉ 80, xuất hiện trào lưu mới “Giới và phát triển” (Gender and the Development – GAD). GAD lấy con người cả nam lẫn nữ làm trung tâm, hướng vào xoá bỏ bất bình đẳng giữa nam và nữ trên cơ sở đáp ứng lợi ích chính đáng của cả hai giới với mục tiêu làm cho hai giới phát triển hài hoà, cùng có trách nhiệm thúc đẩy xã hội phát triển. Lí thuyết giới đòi hỏi phải luôn xem xét các vấn đề của giới này trong mối tương quan với giới kia, có nghĩa là phải xem xét vị trí vai trò của phụ nữ trong tương quan với vị trí, vai trò của nam giới, nhưng vai trò này hướng các giới có những hành vi được xem là phù hợp với những mong đợi của xã hội, đó chính là sự thể hiện phân công lao động theo giới. Vai trò giới là khái niệm được sử dụng như là cách thức tổ chức hành vi của con người trong một ý nghĩa tổng thể. Lí thuyết vai trò giới xuất phát từ những nguồn gốc sinh học mà xác định sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà. Các vai trò giới cơ bản gồm: vai trò sản xuất, vai trò tái sản xuất và vai trò cộng đồng. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết “Sự phân công lao động đầu tiên là phân công lao động giữa đàn ông và đàn bà trong việc sinh đẻ, trong vai
Tài liệu liên quan