Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế và hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi rõ nét về mọi mặt với tốc độ tăng trưởng cao, ổn định.
Về đầu tư, sau khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực ngày 01/01/1988 cho tới cuối năm 2009, đã có 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư gần 11.000 dự án tại Việt Nam, đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, trung bình mỗi năm nhà nước cấp phép cho khoảng 400 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những năm gần đây, trị giá vốn FDI thu hút được đã vượt ngưỡng 10 tỉ USD. So với nhiều quốc gia, những con số trên đây chưa hẳn ấn tượng nhưng đối với Việt Nam, điều này mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó là nguồn vốn bổ sung rất cần thiết để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm; góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đặc biệt, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Bên cạnh những tác động tích cực cần phát huy, cũng có những tác động tiêu cực cần hạn chế. Ngược lại, hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta cũng có khả năng tác động trở lại đến dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cũng giống như đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt động xuất nhập khẩu cũng có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế, nhờ khả năng thúc đẩy tăng trưởng và là cơ sở đánh giá mức độ phát triển của một nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải tiến hành nghiên cứu và đánh giá một cách chính xác và rõ ràng mối quan hệ và khả năng tương tác lẫn nhau giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm khuyến khích những tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực giữa chúng, phát huy tối đa vai trò của FDI cũng như hoạt động xuất nhập khẩu đối với phát triển kinh tế Việt Nam. Đây là lí do em chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa FDI và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
112 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1608 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa FDI và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
ASEM
Diễn đàn hợp tác Á–Âu
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BTA
Hiệp định thương mại song phương
APEC
Diễn đang hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
EU
Liên minh châu Âu
EURO
Đồng tiền chung châu Âu
FIA
Cục đầu tư nước ngoài
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
IPLC
Lý thuyết vòng đời quốc tế của sản phẩm
MFN
Nguyên tắc tối huệ quốc
MNC
Công ty đa quốc gia
NT
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
OECD
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
PNTR
Quy chế Quan hệ Thương mại Bình thường Vĩnh viễn
TNC
Tập đoang xuyên quốc gia
UNCTAD
Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
WIR
Báo cáo đầu tư toàn cầu
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế và hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi rõ nét về mọi mặt với tốc độ tăng trưởng cao, ổn định.
Về đầu tư, sau khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực ngày 01/01/1988 cho tới cuối năm 2009, đã có 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư gần 11.000 dự án tại Việt Nam, đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, trung bình mỗi năm nhà nước cấp phép cho khoảng 400 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những năm gần đây, trị giá vốn FDI thu hút được đã vượt ngưỡng 10 tỉ USD. So với nhiều quốc gia, những con số trên đây chưa hẳn ấn tượng nhưng đối với Việt Nam, điều này mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó là nguồn vốn bổ sung rất cần thiết để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm; góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đặc biệt, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Bên cạnh những tác động tích cực cần phát huy, cũng có những tác động tiêu cực cần hạn chế. Ngược lại, hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta cũng có khả năng tác động trở lại đến dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cũng giống như đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt động xuất nhập khẩu cũng có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế, nhờ khả năng thúc đẩy tăng trưởng và là cơ sở đánh giá mức độ phát triển của một nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải tiến hành nghiên cứu và đánh giá một cách chính xác và rõ ràng mối quan hệ và khả năng tương tác lẫn nhau giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm khuyến khích những tác động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực giữa chúng, phát huy tối đa vai trò của FDI cũng như hoạt động xuất nhập khẩu đối với phát triển kinh tế Việt Nam. Đây là lí do em chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa FDI và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là mối quan hệ giữa FDI và hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam, dựa trên các số liệu về FDI và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn từ 1988 đến nay để phân tích và đánh giá. Trong khóa luận này em cũng xin đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực giữa FDI và xuất nhập khẩu tại Việt Nam thông qua việc điều chỉnh một trong hai nhân tố.
Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là dựa trên nghiên cứu những tài liệu và số liệu có liên quan thu thập được, tiến hành thống kê, phân tích, tổng hợp, từ đó rút ra nhận xét, đánh giá vấn đề.
Kết cấu khóa luận: Kết cấu khóa luận bao gồm 3 chương với nội dung chính như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu
Chương II: Đánh giá mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Chương III: Các giải pháp thu hút FDI và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu trên cơ sở điều chỉnh mối quan hệ giữa FDI và xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Trong lời mở đầu của khóa luận này, em cũng xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Việt Hoa đã rất nhiệt tình hướng dẫn em từ khi nhận đề tài cho đến khi hoàn thành khóa luận này.
Do còn hạn chế về tầm kiến thức, khả năng nghiên cứu và nguồn số liệu nên bài khóa luận của em không tránh khỏi có thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô để khóa luận này được hoàn thiện hơn, thiết thực hơn.
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI VÀ XUẤT NHẬP KHẨU
I. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khái niệm đầu tư quốc tế:
Đầu tư quốc tế là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế trong đó nhà đầu tư di chuyển các phương tiện đầu tư ra nước ngoài nhằm mục đích kinh doanh thu lợi hoặc đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội khác.
Về bản chất, đầu tư quốc tế là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hóa. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Trong nhiều trường hợp việc buôn bán hàng hóa ở nước sở tại là đi tìm kiếm thị trường, tìm hiểu luật lệ để đi đến quyết định đầu tư. Ngược lại, việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước nhận đầu tư là điều kiện để xuất khẩu máy móc, vật tư, nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên của nước này. Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính qui luật trong liên kết hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay.
Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign direct investment - FDI):
FDI là hình thức đầu tư rất phổ biến của đầu tư quốc tế, vì vậy có rất nhiều cách định nghĩa FDI của các tổ chức khác nhau:
Theo định nghĩa của IMF (International Monetary Fund) trong Balance of payments manual, Fifth edition, 1993: đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước này đặt lợi ích dài hạn trong các công việc đầu tư và kinh doanh ở doanh nghiệp tại một nước khác. Mục tiêu của nhà đầu tư là giành được một mức độ ảnh hưởng hiệu quả trong quản lý.
Theo định nghĩa của OECD trong The Detailed Benchmark Definition of Foreign Investment, Third edition, 1996: đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện mục tiêu đạt được lợi ích dài hạn của một nhà đầu tư vào một nền kinh tế. Lợi ích dài hạn nghĩa là sẽ tồn tại một mối quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp; và nhà đầu tư sẽ có một mức độ ảnh hưởng đáng kể trong quản lý doanh nghiệp.
Về cơ bản, hai khái niệm này đều nhấn mạnh mối quan tâm dài hạn và quyền quản lý của nhà đầu tư đi kèm với một số lượng cổ phần nhất định. OECD đưa ra quan điểm rộng hơn IMF về quyền quản lý còn IMF đưa ra quan niệm nhà đầu tư phải sở hữu ít nhất là 10% tổng vốn đầu tư để có quyền quản lý và được xem là đầu tư trực tiếp nước ngoài. OECD không khuyến khích các nước áp dụng ngưỡng góp vốn tối thiểu này, vì ở một số nước, trong một số trường hợp, tỷ lệ này không phản ánh đúng mức độ ảnh hưởng của nhà đầu tư. Đôi khi việc nhà đầu tư sở hữu 10% cổ phiếu thường hoặc quyền bỏ phiếu cũng không mang lại cho họ quyền quản lý đáng kể với doanh nghiệp; trong khi với một số trường hợp khác, nhà đầu tư có thể sở hữu dưới 10% vốn đầu tư nhưng vẫn có quyền quyết định hoạt động của doanh nghiệp nước ngoài (như trong trường hợp là thành viên sáng lập).
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Theo cách hiểu của Luật đầu tư của Việt Nam thì FDI – Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, các nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh thu lợi nhuận trên lãnh thổ Việt Nam.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”. Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp đòng và giáy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có yếu tố nước ngoài.
1.2. Đặc điểm của FDI
i) Các chủ đẩu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu tùy theo quy định của luật đầu tư từng nước. Tùy thuộc vào tình hình kinh tế, mục tiêu thu hút vốn và nhu cầu quản lý, các nước quy định các tỷ lệ góp vốn tối thiểu khác nhau. IMF đưa ra một ngưỡng góp vốn tối thiểu là 10% tổng vốn đầu tư.
ii) Quyền điều hành doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định. Mức độ góp vốn càng cao thì mức độ ảnh hưởng của nhà đầu tư càng lớn. Nếu góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào quá trình điều hành quản lý doanh nghiệp giúp đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
iii) Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trên vốn pháp định sau khi đã nộp thuế cho nước sở tại và trả cổ tức nếu có. Với FDI, các nhà đầu tư tự mình hạch toán lợi nhuận và chịu trách nhiệm về việc kinh doanh của mình do đó không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
iv) FDI thường đi kèm với chuyển giao công nghệ. Dù có hay không có chủ ý thì trong quá trình chuyển vốn vào một nước nhà đầu tư cũng đem lại kèm theo dòng vốn đó máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất…. Hơn nữa, để hoạt động có hiệu quả nhà đầu tư cũng sẽ áp dụng những kinh nghiệm quản lý mới và tăng cường đào tạo nhân lực. Chính vì đặc điểm này mà các nước, đặc biệt là các nước đang phát triến luôn chú trọng thu hút FDI để nhanh chóng hiện đại hóa nền kinh tế.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến FDI
2.1. Các nhân tố liên quan đến nước chủ đầu tư
Các biện pháp liên quan trực tiếp đến đầu tư ra nước ngoài và một số biện pháp khác có liên quan gián tiếp đến đầu tư ra nước ngoài các của các nước có ảnh hưởng rất lớn đến việc định hướng và đến lượng vốn của nước đó chảy ra nước ngoài. Các nước có thể có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ cho các chủ đầu tư nước mình tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và trong những trường hợp cần thiết, cũng có thể áp dụng các biện pháp để hạn chế, hoặc cấm đầu tư ra nước ngoài.
Các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bao gồm: Tham gia ký kết các hiệp định song phương và đa phương về đầu tư hoặc có liên quan đến đầu tư; chính phủ đứng ra bảo hiểm cho các hoạt động đầu tư ở nước ngoài; ưu đãi thuế và tài chính; khuyến khích chuyển giao công nghệ; trợ giúp tiếp cận thị trường; cung cấp thông tin và trợ giúp kỹ thuật.
Ngoài ra chính phủ nước nhận đầu tư cũng có thể đưa ra các biện pháp hạn chế đầu tư như: Hạn chế chuyển vốn ra nước ngoài; hạn chế bằng thuế; hạn chế tiếp cận thị trường; cấm đầu tư vào một số nước.
2.2. Các nhân tố liên quan đến nước nhận đầu tư
Khi lựa chọn địa điểm để đầu tư ở nước ngoài, chủ đầu tư sẽ phải cân nhắc đến các điều kiện sản xuất, kinh doanh ở địa điểm đó xem có thuận lợi hay không nghĩa là cân nhắc đến các yếu tố có liên quan đến lợi thế địa điểm của nước nhận đầu tư. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế địa điểm của các nước nhận đầu tư được chia thành ba nhóm :
Thứ nhất là khung chính sách về FDI của nước nhận đầu tư, bao gồm các qui định liên quan trực tiếp đến FDI và các qui định có ảnh hưởng gián tiếp đến FDI. Các qui định của luật pháp và chính sách liên quan trực tiếp FDI bao gồm các qui định về việc thành lập và hoạt động của các nhà đầu tư nước, các tiêu chuẩn đối xử đối với FDI và cơ chế hoạt động của thị trường trong đó có sự tham gia của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, một số các qui định, chính sách trong một số ngành, lĩnh vực khác cũng có ảnh hưởng đến quyết định của chủ đầu tư. Các qui định này ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và kết quả của hoạt động FDI. Các qui định thông thoáng, có nhiều ưu đãi, không có hoặc ít có các rào cản, hạn chế hoạt động FDI sẽ góp phần tăng cường thu hút FDI vào và tạo thuận lợi cho các dự án FDI trong quá trình hoạt động. Ngược lại, sẽ khiến cho FDI không vào được hoặc các chủ đầu tư không muốn đầu tư. Các qui định của luật pháp và chính sách sẽ được điều chỉnh tùy theo định hướng, mục tiêu phát triển của từng quốc gia trong từng thời kỳ.
Thứ hai là các yếu tố của môi trường kinh tế. Tùy động cơ của chủ đầu tư nước ngoài mà có thể có các yếu tố sau của môi trường kinh tế ảnh hưởng đến dòng vốn FDI:
Các chủ đầu tư có động cơ tìm kiếm thị trường sẽ quan tâm đến các yếu tố như dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người; tốc độ tăng trưởng của thị trường; khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới; các sở thích đặc biệt của người tiêu dùng ở nước nhận đầu tư và cơ cấu thị trường.
Các chủ đầu tư tìm kiếm nguồn nguyên liệu và tài sản sẽ quan tâm đến tài nguyên thiên nhiên; lao động chưa qua đào tạo với giá rẻ; lao động có tay nghề; công nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản do doanh nghiệp sáng tạo ra (thương hiệu, ...); cơ sở hạ tầng phần cứng (cảng, đường bộ, hệ thống cung cấp năng lượng, mạng lưới viễn thông).
Các chủ đầu tư tìm kiếm hiệu quả sẽ chú trọng đến chi phí mua sắm các nguồn tài nguyên và tài sản được đề cập ở phần trên, có cân đối với năng suất lao động; các chi phí đầu vào khác như chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc đi/ đến hoặc trong nước nhận đầu tư; chi phí mua bán thành phẩm; tham gia các hiệp định hội nhập khu vực tạo thuận lợi cho việc thành lập mạng lưới các doanh nghiệp toàn khu vực.
Thứ ba là các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh, bao gồm chính sách xúc tiến đầu tư; các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư; giảm các tiêu cực phí bằng cách giải quyết nạn tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước; nâng cao chất lượng các dịch vụ tiện ích xã hội để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho các chủ đầu tư nước ngoài (các trường song ngữ, chất lượng cuộc sống, ...); các dịch vụ hậu đầu tư. Từ lâu các nước nhận đầu tư đã ý thức được tầm quan trọng của các yếu tố này, vì vậy các nước thường tìm cách cải tiến các yếu tố này nhằm tạo thuận lợi nhiều hơn cho các chủ đầu tư.
2.3. Các nhân tố của môi trường quốc tế
Đó là các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu có ổn định hay không, có thuận lợi hay không thuận lợi cho nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư cũng như cho chính chủ đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tình hình cạnh tranh giữa các nước trong thu hút FDI ảnh hưởng nhiều đến dòng chảy FDI. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thu hút FDI các nước sẽ phải cải tiến môi trường đầu tư, tạo thuận lợi và đưa ra những ưu đãi cho FDI. Nước nào xây dựng được môi trường đầu tư có sức hấp dẫn cao hơn thì nước đó sẽ có khả năng thu hút được nhiều FDI hơn. Cùng với môi trường đầu tư ngày càng được cải tiến và càng có độ mở cao, dòng vốn FDI trên toàn thế giới sẽ dễ dàng lưu chuyển hơn và nhờ vậy lượng vốn FDI toàn cầu có thể tăng nhanh.
II. Thương mại quốc tế
1. Khái niệm và đặc điểm của thương mại quốc tế
1.1. Khái niệm thương mại quốc tế
Luật Thương mại Việt Nam 2005 có nêu cách hiểu về hoạt động thương mại như sau:
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác, Điều 3 khoản 1, luật thương mại Việt Nam 2005.
Như vậy, khái niệm “thương mại” cần được hiểu là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị trường. Nếu hoạt động trao đổi hàng hóa (kinh doanh hàng hóa) vượt ra khỏi biên giới quốc gia mình thì người ta gọi đó là thương mại quốc tế (ngoại thương).
Thương mại quốc tế (ngoại thương) là một ngành kinh tế thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Nói cách khác thương mại quốc tế là sự trao đổi dưới hình thức mua bán hàng hóa và những dịch vụ kèm theo như lắp ráp, bảo hành, bảo hiểm, thanh toán quốc tế, vận tải quốc tế của một quốc gia này với một quốc gia khác hoặc một tổ chức quốc tế.
1.2. Đặc điểm của thương mại quốc tế
Xuất phát từ định nghĩa, thương mại quốc tế có những đặc điểm sau:
i) Chủ thể là những nhà xuất nhập khẩu mang quốc tịch khác nhau (hoặc có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau) vì ngoại thương thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa vượt ra khỏi biên giới một quốc gia.
ii) Đối tượng của hoạt động thương mại quốc tế là tài sản; do được đem ra mua bán, tài sản này biến thành hàng hóa. Hàng hóa này có thể là hàng đặc định (specific goods) và cũng có thể là hàng đồng loại (generic goods). Hàng hóa – đối tượng của hoạt động thương mại quốc tế được di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia.
iii) Đồng tiền thanh toán sử dụng trong các hoạt động thương mại quốc tế là ngoại tệ đối với một trong hai hoặc tất cả bên tham gia.
iv) Thương mại theo giá cả và thanh toán mang tính quốc tế. Hàng hóa muốn bán được trên thị trường quốc tế phải phù hợp với giá cả của hàng đồng loại của những nhà cung cấp chính và phương thức thanh toán cũng phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng nước ngoài và tập quán quốc tế.
2. Các nhân tố tác động đến thương mại quốc tế
2.1. Toàn cầu hóa và khu vực hóa
Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra trên thế giới hiện nay là sự gia tăng các mối quan hệ gắn kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Toàn cầu hóa là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự, môi trường sinh thái… Trong các mặt đó thì toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập và thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô thương mại toàn cầu, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh tế được thể hiện chủ yếu ở hai bình diện: mở rộng thị trường tiêu thụ và mở rộng địa bàn sản xuất. Liên quan tới hai bình diện nói trên là các quá trình tự do hóa hoạt động kinh tế mà ở đó nổi bật lên ba quá trình chính là tự do hóa thương mại, tự do hóa tài chính và tự do hóa đầu tư.
Bên cạnh xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, ngày nay xu hướng hình thành và phát triển các liên kết khu vực cũng ngày càng gia tăng. Liên kết kinh tế khu vực là liên kết giữa hai hay nhiều nước trong phạm vi địa lý nhất định, đảm bảo mối quan hệ giữ các thành viên trong khu vực và quan hệ với nền kinh tế thế giới.
Tính ưu việt của các tổ chức kinh tế khu vực là: thực hiện chính sách ưu đãi trong nội bộ các thành viên về đầu tư tài chính, phát triển kĩ thuật, trao đổi hàng hóa… Tổ chức kinh tế khu vực còn thực hiện chế độ mậu dịch tự do giữa các nước hoặc giảm thuế đối với các lĩnh vực sản xuất mũi nhọn, tạo điều kiện phát triển cho mọi thành viên và sự vững mạnh của cộng đồng. Từ các mối liên minh liên kết khu vực sẽ tạo ra điều kiện cho các nước hình thành các thị trường thương mại, đầu tư, các trung tâm công nghiệp khu vực, từ đó sẽ làm hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị triệt tiêu, hàng hóa giữa các nước lưu chuyển không bị hạn chế.
Toàn cầu hóa, khu vực hóa có tác động to lớn tới tất cả các hoạt động thương mại quốc tế, trong đó có những tác động mang tính tích cực như thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại, thúc đẩy sự phát triển và xã