Đề tài Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát ở Việt Nam

Như chúng ta đã biết ,bội chi ngân sách là một vấn đề mà các quốc gia đều gặp phải .Việc Xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy mỗi quốc gia đều có những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục bội chi ngân sách đua bội chi đến một mức nhất định

docx34 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3304 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Nội dung Trang Chương I: Cơ sở lí thuyết 3 1. Ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi ngân sách nhà nước 3 1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước: căn cứ luật ngân sách năm 2002 3 1.2 Đăc điểm của NSNN 3 1.3. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước. 4 1.4 Phân loại thâm hụt ngân sách 5 1.5 Nguyên nhân của bội chi ngân sách. 5 2. Lạm phát. 6 2.1 Khái niệm lạm phát. 6 2.2 Các loại lạm phát. 6 2.3 Cách tính lạm phát 7 2.4 Nguyên nhân lạm phát 8 3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát 9 Chương II: Thực tiễn ở Việt Nam từ năm 2005-2010 11 1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ 2005-2010 11 2. Thực trạng bội chi ngân sách ở Việt Nam từ 2005-2010. 13 3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát. 17 III) Giải pháp xử lí bội chi ngân sách nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam. 19 1. Những vấn đề đặt ra về xử lí bội chi ngân sách nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam. 19 2. Giải pháp xử lý bội chi ngân sách nhằm kiềm chế lạm phát. 21 2.1 Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. 22 2.2 Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, nhất là ngân sách các địa phương. 23 2.3 Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám sát chặt chẽ việc vay vốn. 23 2.4 Tăng thu giảm chi 23 2.5 Biện pháp vay nợ 27 2.6 Tăng cường vai trò quản lí của nhà nước. 30 LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết ,bội chi ngân sách là một vấn đề mà các quốc gia đều gặp phải .Việc Xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy mỗi quốc gia đều có những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục bội chi ngân sách đua bội chi đến một mức nhất định .Chính phủ Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ . Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như: giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở Việt Nam. Vậy xử lý bội chi NSNN như thế nào để ổn định vĩ mô, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay? các giải pháp khắc phục bội chi ngân sách nhà nước Việt Nam hiên nay là gì ? Những ưu nhược điểm của các giải pháp đó đối với sự pháp triển kinh tế Việt Nam hiên nay ? Chương I: Cơ sở lí thuyết 1. Ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi ngân sách nhà nước 1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước: căn cứ luật ngân sách năm 2002 Căn cứ luật ngân sách số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, được sửa đổi và có hiệu lực từ 01/01/2004 thì Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Trong hệ thống tài chính, NSNN là bộ phẩn chủ đạo, là điều kiện cật chất quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước do hiến pháp quy định, nó còn là công cụ quan trọng của nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô của nền kinh tế xã hội, muốn sử dụng tốt công cụ ngày phải nhận thức được những vấn đề lí luận cơ bản của NSNN. Mặt khác NSNN còn phản ánh các quan hệ kinh tế giữa một bên là NN một bên là các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Những khoản thu nộp và cấp phát qua quỹ NSNN là các quan hệ được xác định trước, được định lượng và NN sử dụng chúng để điềuchỉnh vĩ mô nền kinh tế. Từ những phân tích trên, ta có thể xác định được ‘’NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ chung của NN khi NN tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của NN trên cơ sở luật định’’ 1.2 Đăc điểm của NSNN Thứ nhất:Tạo lập và sử dụng NSNN gắn liền quyền lực với việc thực hiện các chức năng của NN, đây cũng chính là điểm khác biệt giữa NSNN với các khoản tài chính khác. Các khoản thu NSNN đều mang tính chất pháp lý, còn chi NSNN mang tính cấp phát ‘’không hoàn trả trực tiếp’’. Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện nhiệm vụ kinh tế-Xã hội NN đã sử dụng để quy định hệ thống pháp luật tài chính, buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho NN với tư cách là một chủ thể. Thứ hai: NSNN luôn gắn chặt với NN chứa đựng lợi ích chung và công, hoạt động thu chi NSNN là thể hiện các mặt KT-XH của NN, dù dưới hình thức nào thực chất cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa NN và XH thể hiện qua các khoản cấp phát từ NSNN cho các mục đích tiêu dùng và đầu tư. Quan hệ kinh tế giữa NN và XH dó đó thể hiện ở phạm vi rộng lớn. Thứ ba: Cũng như các quỹ tiền tệ khác NSNN cũng có đặc điểm riêng của một quỹ tiền tệ, nó tập chung lớn nhất của NN là nguồn tài chính nên NSNN là giá trị thặng dư của xã hội do đó nó mang đặc đIểm khác biệt. Thứ tư: Hoạt động thu cho của NSNN được thể hiện theo nguyên tắc không hoàn lại trực tiếp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích rút ngắn khoản thời gian giữa người giàu và nghèo để công bằng xã hội 1.3. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước. Bội chi Ngân sách Nhà nước trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó. Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về Ngân sách Nhà nước hằng năm như sau: Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm Tổng Thu Tổng Chi A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí). B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước). D. Chi thường xuyên. E. Chi đầu tư. F. Cho vay thuần (= cho vay mới - thu nợ gốc). C. Bù đắp thâm hụt - Viện trợ. - Lấy từ nguồn dự trữ. - Vay thuần (= vay mới - trả nợ gốc). Nguyên tắc cân bằng ngân sách là: A + B +C = D + E + F Công thức tính bội chi Ngân sách Nhà nước của một năm sẽ như sau: Bội chi Ngân sách Nhà nước = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C (khoản bù đắp thâm hụt) Bội chi ngân sách Nhà nước có thể do ngoài tầm kiểm soát nhưng cũng có thể nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. 1.4 Phân loại thâm hụt ngân sách Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thánh hai loại: Thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kì. *) Thâm hụt cơ cấu Là các khoản thâm hụt được quyết định bởi nhưng chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi cho giáo dục-đào tạo, quốc phòng… *) Thâm hụt chu kì: Là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng cảu chu kì kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấy của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ: khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn dến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên. 1.5 Nguyên nhân của bội chi ngân sách. Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN: - Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ. - Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu. Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn,…), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNN. Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn,...), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNN. 2. Lạm phát. 2.1 Khái niệm lạm phát. Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của một loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không thay đổi. Khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số lượng hàng hoá ít hơn so với năm trước. 2.2 Các loại lạm phát. Có nhiều dạng lạm phát khác nhau, như lạm phát một con số (single-digit inflation), lạm phát phi mã (galloping inflation), siêu lạm phát (hyper inflation)… Lạm phát một con số (single-digit inflation): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3% đến 7% một năm. Lạm phát phi mã (galloping inflation): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ hai con số tới ba con số một năm nhưng vẫ thấp hơn siêu lạm phát. Siêu lạm phát (hyper inflation): là lạm phát mất kiểm soát, một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có khái niệm siêu lạm phát được chấp nhất tổng quát, một cách hiểu đơn giản về siêu lạm phát đó là cứ một tháng thì giá cả lại tăng gấp đôi. Có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát. (1) Người dân không muốn giữ tài sản ở dạng tiền mặt,(2) Giá cả trong nước không tính bằng nội tệ nữa mà tính bằng ngoại tệ ổn định, (3) Các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời hạn tín dụng ngắn, (4) Lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và lạm phát cộng dồn lên tới 100%. 2.3. Cách tính lạm phát Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước). Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này. Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy nhiên, thước đo lạm phát phổ biến nhất chính là CPI - Chỉ số giá tiêu dùng (consumer price index) đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau, bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế..., được mua bởi "người tiêu dùng thông thường". *)Tính theo CPI Nếu Po là mức giá cả trung bình của kỳ hiện tại và P-1 là mức giá của kỳ trước, thì tỷ lệ lạm phát của kỳ hiện tại là: Tỷ lệ lạm phát = 100% x Po – P-1 P-1 2.4. Nguyên nhân lạm phát. Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân: cầu kéo, chi phí đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế, lạm phát gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư... 2.4.1. Lạm phát do cầu kéo. Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. 2.4.2. Lạm phát do chi phí đẩy. Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng. 2.4.3. Lạm phát do cung ứng tiền tệ. Cung tiền tăng (chẳng hạn do [ngân hàng trung ương] mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua [công trái] theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. Lạm phát loại này nguyên nhân là do lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều, vượt quá mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị của nền kinh tế́. Có thể do ngân hàng trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn trong nền kinh tế bằng các nghiệp vụ thị trường mở hay chính sách tiền tệ lới lỏng. Khi lượng tiền lưu thông quá lớn, ví dụ trong tay bạn có nhiều hơn 100 triệu..., thì sự tiêu dùng theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. ÁP lực cung hạn chế dẫn tới tăng giá trên thị trường, và do đó sức ép lạm phát tăng lên. 2.4.4. Nguyên nhân khác gây lạm phát. Chính sách tiền tệ: Nếu điều tiết lạm phát ở mức độ ổn định và hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, hay nói cách khác là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, điều kiện cần là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ thuật..... Nghiên cứu bước đầu của IFM (2006) về mức độ lạm phát ở Việt Nam với các nước Đông Nam á cũng đã chỉ ra răng, mức lạm lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở các nước vùng Đông Nam á, trong đó có Việt Nam khoảng 3.6% trong khi các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng trưởng. Lạm phát cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó. Lạm phát đẻ lạm phát: Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ, giá tăng lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền không ổn định thì giá cả sẽ tăng cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên => gây ra lạm phát. ……………. 3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát. Thậm hụt ngân sách và lạm phát có mối quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau: Bội chi ngân sách cao sẽ dẫn đến lạm phát và ngược lại. Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng của Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì Chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước... Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách. Tuy nhiên chính mức tăng chi tiêu của Chính phủ sẽ kéo theo hiệu ứng tăng giá ở một số các lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ do gia tăng cầu dẫn đến tình trạng lạm phát do cầu kéo, song song với việc giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng cũng sẽ kéo theo các chi phí sản xuất tăng dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy. Mặt khác khi các nhu cầu về đầu tư cơ sở hạ tầng tăng cao mà ngân sách nhà nước lại thiếu hụt dẫn đến không đủ nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển. Để bù đắp phần thiếu hụt, Nhà nước có thể sử dụng chính sách phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên việc tăng chi tiêu của Chính phủ trong trường hợp này sẽ gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia. Nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN thì sẽ gây ra tình trạng lạm phát tiền tệ. Ngược lại, khi lạm phát cao, nhà nước phải cung tiền để kích cầu đảm bảo quan hệ cân bằng tiền-hàng ổn định giá cả, kinh tế vĩ mô. Điều này sẽ dẫn đến chi nhiều hơn thu trong bẳng cân đối kế toán và sẽ dẫn tới thâm hụt ngân sách. Chương II: Thực tiễn ở Việt Nam từ năm 2005-2010 1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ 2005-2010 Nguồn HSBC Nhìn vào số liệu cho thấy tình hình lạm phát tại Việt Nam có chiều hướng gia tăng cao từ giữa cuối năm 2007 và đạt đỉnh cao vào tháng 8/2008 với mức tăng CPI là hơn 30%. Tính trung bình tỷ lệ lạm phát năm 2007 là 8.86% và năm 2008 là 22,97%. Đây có thể nói là mức tăng cao nhất kể từ năm 2004. Đến 2009-2010 tình hình phát có xu hướng giảm và trở về mức trên 10 %. Năm 2005 tuy CPI cuối kỳ giảm so với năm 2004 nhưng tính chung cả năm 2005, CPI bình quân ở mức 8,3%, cao hơn mức 7,7% của năm 2004. Nguồn: Tổng cục thống kê Lạm phát năm 2006 có xu hướng giảm, lạm phát cuối kỳ giảm từ mức 8.4% năm 2005 xuống 6.6% năm 2006; lạm phát bình quân giảm từ 8.3% xuống 7.4% do tác động của các nhân tố làm giảm lạm phát mạnh hơn các nhân tố làm tăng lạm phát. Lạm phát năm 2007 có mức tăng đột biến, tăng 12,63%, cao hơn mức 6.6% của năm 2006, đồng thời lạm phát bình quân cũng tăng từ mức 7,45% lên mức 8,3%. Năm 2008 là 1 năm đáng nhớ đối với kinh vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam. Chỉ số CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm.Nỗi lo lạm phát thực sự đã xuất hiện vào thời điểm Tổng cục Thống kê công bố chỉ số giá tiêu dùng tháng 2/2008 đạt mức tăng 3,56% so với tháng trướctháng Năm đạt đỉnh tăng của năm 2008 với 3,91%. Nguồn:Tổng cục thống kê Sau chiều hướng giảm dần CPI ở những tháng cuối năm 2008, sang đầu năm 2009, chỉ số giá đã được điều chỉnh. Lạm phát bình quân cả năm tăng 6.88 so với năm 2008. Con số lạm phát năm 2010 là 11,75%vượt xa chỉ tiêu lạm phát Quốc hội giao cho Chính phủ hồi đầu năm (không quá 7%), chỉ tiêu được điều chỉnh (không quá 8%) và yêu cầucuối cùng của Chính phủ: không tới mức 2 con số. 2. Thực trạng bội chi ngân sách ở Việt Nam từ 2005-2010. Do việc xem xét là căn cứ thực tế tại Việt Nam, do đó các số liệu về bội chi ngân sách được nghiên cứu ở đây là lấy số liệu được tính theo cách tính riêng của Việt Nam và công bố trong nước, không sử dụng số liệu công bố quốc tế ( số liệu của Bộ tài chính công bố tại website: . Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và đầu tư Từ năm 2005-2010, tình hình bội chi NSNN tăng lên qua các năm và về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5,5% GDP và nằm trong mức mà quốc hội đã thông qua từ đầu năm. Tuy nhiên nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so với GDP thì chưa thấy hết sự tăng lên của nó trong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây, ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các công trình giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ không cân đối vào NSNN. Ngoài ra, phải kể đến lượng công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài NSNN. Nếu cộng cả hai loại trên vào cân đối NSNN, bội chi NSNN trong những năm qua không phải chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP). Tốc độ tăng bội chi NSNN là khá cao, trung bình ở mức 18%/ năm trong các năm 2005- 2006 và đột biến ở năm 2007 với mức là 33% so với năm 2006. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ lệ lạm phát từ 2004 – 2007 (năm 2004: 7,8%; năm 2005: 8,3%; năm 2006: 7,4%; năm 2007: 8,86% ). Riêng năm 2008 tốc độ tăng bội chi giảm hẳn xuống so với 2007, đây là do chính sách cắt giảm chi tiêu của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát. Về bù đắp bội chi ngân sách, trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên. Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và đầu tư Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm 2005 bằng 15,5% tổng số chi, chiếm khoảng 4,86% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm, trong đó 80% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 20 % từ nguồn vay nước ngoài. Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm 2006 bằng
Tài liệu liên quan