Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp. Mặt khác khi nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nhiều quan hệ kinh tế cũng mang những diện mạo sắc thái mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các tranh chấp kinh tế ngày càng muôn hình muôn vẻ và với số lượng lớn. Để lựa chọn một hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng đó là một vấn đề lớn đặt ra cho mỗi chủ thể trong tranh chấp kinh doanh thương mại. Lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại hay tòa án đều có những ưu nhược điểm riêng tuy nhiên khi lựa chọn phương thức giải quyết bằng trọng tài thương mại thì khi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thì tòa án và trọng tài thương mại có mối quan hệ như thế nào với nhau trong quá trình tố tụng đó là vấn đề lớn đặt ra. Làm thế nào để mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và tòa án ngày càng chặt chẽ nhằm đảm bảo công minh, nhanh chóng, chính xác và kịp thời tránh tình trạng tồn đọng án, giải quyết án kéo dài, dễ gây phiền hà, mệt mỏi cho các bên đương sự. Do vậy, việc nghiên cứu thực tiễn về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án được nhiều người quan tâm. Đồng thời việc giải quyết tranh chấp này còn góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự, đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia.
29 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3113 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại trong tố tụng trọng tài – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết cua đề tài:
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp. Mặt khác khi nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nhiều quan hệ kinh tế cũng mang những diện mạo sắc thái mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các tranh chấp kinh tế ngày càng muôn hình muôn vẻ và với số lượng lớn. Để lựa chọn một hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng đó là một vấn đề lớn đặt ra cho mỗi chủ thể trong tranh chấp kinh doanh thương mại. Lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại hay tòa án đều có những ưu nhược điểm riêng tuy nhiên khi lựa chọn phương thức giải quyết bằng trọng tài thương mại thì khi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thì tòa án và trọng tài thương mại có mối quan hệ như thế nào với nhau trong quá trình tố tụng đó là vấn đề lớn đặt ra. Làm thế nào để mối quan hệ giữa trọng tài thương mại và tòa án ngày càng chặt chẽ nhằm đảm bảo công minh, nhanh chóng, chính xác và kịp thời tránh tình trạng tồn đọng án, giải quyết án kéo dài, dễ gây phiền hà, mệt mỏi cho các bên đương sự. Do vậy, việc nghiên cứu thực tiễn về giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án được nhiều người quan tâm. Đồng thời việc giải quyết tranh chấp này còn góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự, đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia.
Chính vì những lý do trên, em xin chọn đề tài: “ Mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại trong tố tụng trọng tài – Thực trạng và giải pháp”
Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu về mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại trong tố tụng trọng tài thương mại.
Thông qua thực trạng về mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại trong tố tụng trọng tài để nêu ra hạn chế và hướng hoàn thiện.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học:
Giúp sinh viên hiểu thêm về mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại trong tố tụng trọng tài, tìm ra thực trạng và giải pháp.
Ý nghĩa thực tiễn:
Thông qua việc nêu ra hạn chế và hướng giải quyết, góp phần giúp sinh viên các khoá sau tham khảo nhằm hoàn thiện bài viết của mình đối với những bài viết có liên quan đến đề tài này.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về thực trạng và giải pháp của mối quan hệ giữa toà án và trọng tài thương mại trong tố tụng trọng tài ở Việt Nam.
1.4.2. Phạm vi
Phạm vi không gian: trong phạm vi pháp luật Việt Nam có khả năng điều chỉnh.
Phạm vi thời gian:từ thời điểm pháp lệnh trọng tài thương mại có hiệu lực đến nay
phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp duy vạt biện chứng
- so sánh, đối chiếu…
bố cục của đề tài
ngoài phần mở đầu và kết luận thì đề tài gồm có hai chương
chương 1: Lý luận về mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại trong tố tụng trọng tài
chương 2: Thực trạng về mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại trong tố tụng trọng tài
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TÒA ÁN VÀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
một số khái niệm
Toà án:
Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Ở các nước khác nhau,có thể có sự khác nhau trong việc xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại tại tòa án. Một số nước (mỹ, Nhật, Hà lan…) trao thẩm quyền xét xử mọi tranh chấp,trong đó có các tranh chấp trong thương mại cho tòa án thường (tòa án dân sự). một số nước khác lại trao quyền xét xử các tranh chấp tương mại cho tòa án tương mại – tòa án chuyên trách trong cơ quan tư pháp (Đức, Pháp, Áo, Bỉ…) các tòa án thương mại chỉ xét xử sơ thẩm, nếu có kháng cáo sẽ được đưa ra xét xử ại tòa thượng thẩm dân sự. Có nước thành lập tòa án hệ thống tòa án độc lập gọi tòa án trọng tài để giải quyết tranh chấp như Cộng hòa liên bang Nga.
Ở Việt Nam tranh chấp thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền của tòa kinh tế - tòa chuyên trách trong hệ thóng tòa án nhân dân. Phương thưc giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án có một số nội dung lưu ý sau đây:
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tòa án:
Thẩm quyền của tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại được phapf luật phân định theo cấp tòa án, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nghuyen đơn.
thẩm quyền theo cấp tòa án
Tuy không thành lập tòa kinh tế ở tòa án nhân dân huyện nhưng theo điều 33 bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, tòa án nhân dan huyện được trao thẩm quyền sơ thẩm một số tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy dịnh tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và I khoản 1 điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Như vậy dù đã cố gắng trong việc mở rộng thẩm quyền cho tòa án cấp huyện song pháp luật hiện hành của việt nam vẫn chủ yếu tập trung thẩm quyền sơ thẩm cac tranh chấp kinh doanh, thương mại cho tòa án kinh tế cấp tỉnh. Các tranh chấp về kinh doanh, thương mại không phụ thuộc vào thẩm quyền giải quyết của tòa án cấp huyện,gồm có:
Tranh chấp tại các điểm a, b, c, d, e, g, h và i khoản 1 điều 29 bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài, cho tòa án nước ngoài.
Tranh chấp về vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, dường biển, mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác ; đàu tư tài chính, ngaanhangf; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp giqax cong ty và các thành vienne của công ty, giữa các thành viên cong ty với nhau liên quan đến thành lập hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức cong ty/
Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật quy định.
Thẩm quyền giải quyết kinh doanh tương mại của tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc về tòa kinh tế và ủy ban nhân dân thẩm phán tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Tòa kinh tế tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm tất cả cấc tranh chấp về kinh doanh, thương mại, trừ tranh chấp thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện.
Khi cần thiết , tòa kinh tế tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể lấy lên đẻ giải quyêt theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện (khoản 2 điều 34 bộ luật tố tụng dân sự năm 2004)
Ngoài thẩm quyền sơ thẩm, tòa án kinh tế tòa án nhân dân cấp tlực ỉnh còn có thẩm quyền phúc thẩm đối với những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp huyenj bị kháng cáo, kháng nghị.
Ủy ban thẩm phán tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyenf giám đốc thẩm, tái thẩm đói với những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật cua tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị kháng nghị theo trình tự tố tụng.
Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về kinh doanh thương mại của tòa án nhân dân tối cao thuộc tòa kinh tế, tòa phúc thẩm và hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao.
Tòa kinh tế tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị theo trình tự thủ tục tố tụng.
Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền phúc thẩm đối với những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị.
Họi đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đóc thẩm, tái thẩm đối với những vụ án mà bản án, quyết định của các tòa thuộc tòa án nhân tối cao bị kháng nghị theo trình tự tố tụng.
Thẩm quyền theo lanh thổ
Theo điêu 35 bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, tòa án có thẩm quyền sơ thẩm quyền tranh chấp về kinh doanh, thương mại là tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức).
Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết nhưng tranh chấp về bất động sản.
Ngoài ra, bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 còn cho phép đương sự có quyền thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu tòa án nơi cư trú, làm việc cua nguyên đơn (nếu nguyên dơn là cá nhân) hoặc nơi có trụ sở cua nguyên đơn(nếu nguyên đơn llaf cơ quan tổ chức) giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thqoqng mại. nội dung pháp lý này là một diểm mới của bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 mà trước đó, các văn bản pháp luật của việt nam chưa có quy định. Trước khi bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chưa có hiệu lực pháp luật, pháp luật của việt nam không cho phép các đương sự có quyền thỏa thuận chọn tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc nơi dăng ký trú sợ của nguyên đơn giải quyết vụ tranh chấp. thẩm quyền của tòa đã dược pháp luật phân định theo những tiêu chí nhất định mà các dương sự không dược quyền thỏa thuận chọn tòa án, chỉ có nguyên đơn mới có quyền được chọn tòa án trong những trường hợp được pháp luật quy định. Việc cho phép các đương sự được thỏa thuận chọn tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết vụ tranh chấp là xuất phát từ quan điểm tôn trọng quyền đinh đoạt của các đương sự và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên trong qua trìh giải quyết tranh chấp.
thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Để thuận lợi nhất cho nguyên đơn trong việc giải quyết vụ tranh chấp cũng như xác định thẩm quyền của tòa án cụ thể, pháp luật dành cho nguyên đơn được quyền chọn tòa án để giải quyết vụ tranh chấp. theo điều 36 bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, nguyên đơn được chọn tòa án dể giải quyết vụ tranh chấp về kinh doanh thương mại trong những trường hợp sau đây:
Nếu không biết nơi cư trú, trụ sở,làm việc của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu cầu tóa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuois cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết.
Nếu tranh chấp phát sinh từ chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có yêu cầu tòa án nơi tổ chức đó có trụ sở hoặc nơi tổ chức đó có chi nhánh giải quyết.
Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam thì nguyênđơn có thể yêu cầu tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết.
Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án nơi hợp đồng dược thực hiện giải quyết.
Nếu các bị đơn cu trứ, làm việc, trụ sở ở nhiều nơi nhau thì nguyên dơn có thể yêu cầu tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết.
Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
1.1.1.2. Thủ tục tranh chấp kinh doanh,thương mại tại tòa án
Thủ tục giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại tại tòa án cũng như thủ tục giải quyết tranh chấp về dân sự , hôn nhân gia đình, lao động (gọi chung là thủ tục giải quyết vụ án) gồm có:
Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm, gồm có: khởi kiện và thụ lý tòa án; hòa giải và chuẩn bị xét xử; phiên tòa sơ thẩm.
Thủ tục giải quyết vị án tại tòa án cấp phúc thẩm.
Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bao gồm: thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
Ưu điểm và nhược giải quyết tranh chấp bằng tòa án:- chủ thể tiến hành tố tụng: những người tiến hành tố tụng nhân danh nhà nước: Chánh án Toà án, Thẩm phán, Thư ký Toà án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên.- Những người tham gia tố tụng: nguyên đơn, bị đơn và người có nghĩa vụ quyền lợi liên quan- Xét xử công khai tạo đều kiện cho người dân giám sát Toà án là cơ quan xét xử của Nhà nước, nhân danh nước CHXHCN Việt Nam quyết định đưa vụ tranh chấp ra xét xử theo trình tự Tố tụng dân sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự đương nhiên là phải chặt chẽ, với nhiều thủ tục tố tụng rườm rà, thời gian kéo dài; xét xử công khai; án được tuyên không tuỳ thuộc ý chí các bên mà là kết quả nghị án của Hội đồng xét xử .Do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.Tuy nhiên, việc đưa vụ việc ra Tòa án thực sự là giải pháp cuối cùng, như các cụ ta thường nói “vô phúc đáo tụng đình” mà các bên phải cân nhắc khi biết những phức tạp thực tế từ việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án; như là thủ tục kéo dài với nhiều cấp xét xử, sự công khai trong quá trình xét xử công khai và tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc cho các bên. Đồng thời khi đó, quan hệ giao thương giữa các đối tác khó có thể gắn kết lại như lúc ban đầu.
1.1.2. Trọng tài thương mại
Trọng tài thương mai là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước. các trung tâm trọng tài dược thành lạp theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, chứ không phải được thành lập từ nhà nước. Các trung tâm trọng tài không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước (như trọng tài kinh tế nhà nước trước đây) cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử nhà nước (như tòa án kinh tế hiện nay).
Hoạt đọng cua trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước.
Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài khong nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh người độc lập thứ ba ra phấn quyết.
Là tổ chức phi chính phủ nhưng các trung tâm trọng tài luôn đắt dưới sự quản lý và hỗ trợ của nhà nước. Nhà nước là chủ thể quản lý đối với mọi mặt đời sông xã hội. Nhà nước quản lý đối với các trung tâm trọng tài thông qua viecj ban hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức vạ hoạt động của cac trung tâm trọng tài. Ngoài ra việc quản lý nhà nước đối với trọng tài tương mại còn được thực hiện thông qua hoạt động quản lý của hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong viecj cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giáy phép thành lập, đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài…
Trong quá trình hoạt động, các trung tâm trọng tài cũng cân sự hỗ trợ của nhà nước trenn nhiều phương diện. trong tài thương mại là cơ quan “tài phán tư”, không nhân danh quyền lực nhà nước. bởi vaayj ở việt nam cũng như các trên thế giới, hoạt động của các trung tâm trọng tài cần thiết phải có sự hỗ trợ của nhà nước. sự hỗ trợ cua nhà nước đối với hoạt động cua trọng tài thương mại được thể hiện rõ nét, như: hỗ trợ cỉ định, thayy đổi trọng tài viên; hỗ trợ trong việc xem xét lai quyết định của hội đồng trọng tài;hỗ trợ trong việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ; hỗ trợ trong việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài; hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài.
Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân tồn tại độc lập với nhau. Trung tâm trọng tài là tổ chức thỏa mãn đầy đủ các điều kiện pháp nhân, bao gồm: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm về tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập (điều 84 bộ luật Dân sự - 2005).
Mỗi trung tâm trọng tài là một pháp nhân, tồn tại độc lập và bình đẳng với các trung tâm trọng tài khác. Ngoài sự độc lập, bình đảng và quan hệ hợp tác (nếu có), giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới như hệ thống các cơ quan tài phán nhà nước. sự khác biệt này về tổ chức của trọng tài(cơ quan tài phán tư) so với với hệ thống tổ chức của toa án (cơ quan tài phán công) dẫn đến tính đặc thù của tố tụng trọng tài trong việc áp dụng nguyên tắc xét xử một lần.
Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tài gồm ban diều hành của các trọng viên cua trung tâm. Ban điều hành của trung tâm trọng tài gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử. Bên cạnh bân điều hành, trung tâm trọng tài còn có các trọng tài viên trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài. Các trọng tài viên tham gia vào việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng. Mỗi trung tâm trọng tài tự xác định về lĩnh vực hoạt động cua mình tùy thuộc vao khả năng chuyên của đội ngủ trọng tài viên và phải được ghi rõ trong điều lệ cơ quan trong tài. Trong quá trình hoạt động, các trung tâm trọng tài có quyền mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt đông nhưng phải được sự chuẩn thuận của cơ quân nhà nước có thẩm quyền. Là tổ chức vô chính phủ, các trung tâm trọng tài tồn tại độc lập với nhau vùa hợp tác vừa cạnh tranh cùng nhau. Bên cạnh chất lượng các trọng tài viên, sự đơn giản và linh hoạt cua quy tắc tố tụng cũng là yếu tố tạo ra sự hấp dẫn của mỗi trung tâm trọng tài trước các khách hàng. Bởi vậy, mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được xây dưng căn cứ vào đặc thù của tổ chức, hoạt dộng cua trung tâm và không trái với quy định của luật trọng tài thương mại. Khi giả quyết tranh chấp, hội đòng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này. Trường hợp tranh cháp có yếu tố nước ngoài, hội đồngtrọng tài được áp dụng quy tắc tố tụng khác, nếu các bên có thỏa thuận (khoản 2 điều 49 pháp lệnh trọng tài thương mại).
Bản quy tắc trọng tài UNCITRAL do ủy ban luật thương mại quốc tế của liên hợp quốc (thông qua năm 1976) hay bản quy tắc trọng tài của phòng thương mại quốc tế (ICC) có hiệu lực từ năm 1988 và một số công ước quốc tế có liên quan cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín ( London, Brussell…) thường được coi là cơ sở, khuân mẫu cho việc xây dựng quy tăc tố tụng của các trung tâm trọng tài.
Hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm. Mỗi trung tâm trọng tài đều có danh sách riêng về trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất để giải quyết vụ tranh chấp chỉ được giới hạn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm.
Ưu và nhược điểm: Ưu, nhược điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với giải quyết tại toà ánThực tế cho thấy, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có những ưu điểm vượt trội so với giải quyết tranh chấp tại toà án. Những ưu điểm đó là: - Đề cao ý chỉ tự do thoả thuận của các bên tranh chấp;- Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại đơn giản, không có nhiều công đoạn tố tụng, nhanh, gọn, linh hoạt đáp ứng đòi hỏi hoạt động thương mại của các bên có liên quan;- Nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó, có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh;- Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa chọn trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố tụng;- Trọng tài viên - người chủ trì phân xử tranh chấp, có chuyên môn sâu và kinh nghiệm giải quyết đối với lĩnh vực của vụ tranh chấp;- Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong thương mại. Quyết định trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của toà án;- Tố tụng trọng tài không bị ràng buộc về mặt lãnh thổ, nghĩa là các bên muốn chọn trung tâm trọng tài nào cũng được, bất kể địa chỉ của họ ở đâu;- Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi hành, nên bên đương sự nào không chấp nhận phán quyết của trọng tài thì có thể kiện ra toà kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án;- Quyết định giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài phải được các bên thi hành