Nghiên cứu này cốgắng điều tra xem liệu vàng hay dầu là chỉbáo tốt hơn về
lạm phát và cốgắng tìm ra giữa vàng và dầu, đâu là nhân tốcung cấp hàng rào
chống lại lạm phát tốt hơn ởThổNhĩKỳ. Các mối quan hệlâu dài giữa giá dầu,
vàng và tỷlệlạm phát đã được điều tra bằng cách sửdụng dữliệu hàng tháng về
giá dầu, vàng và tỷlệlạm phát. Các dữliệu bao gồm các giai đoạn từngày
10/02/1994 đến ngày 12/02/2008. Phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng chỉsố
CPI hiển thịmột mối tương quan cao với cảgiá vàng và giá dầu. Kết quảcũng
cho thấy vàng là một chỉsốdựbáo lạm phát tốt hơn so với dầu. Nghiên cứu kết
luận rằng khảnăng bảo hiểm rủi ro lạm phát của cảvàng và dầu phụthuộc vào
sựtồn tại của một mối quan hệ ổn định lâu dài với tỷlệlạm phát, với lưu ý rằng
vàng và CPI cũng nhưgiá dầu và CPI không có quan hệ đồng liên kết có nghĩa
là không có mối quan hệlâu dài giữa tỷlệlạm phát và giá vàng, giá dầu.
Sau sựsụp đổcủa hệthống Bretton Woods năm 1971, các nhà đầu tưbắt đầu
tìm kiếm các loại tiền tệlàm "nơi trú ẩn an toàn". Tuy nhiên các loại tiền tệan
toàn nhất lại có liên quan đến nguy cơkinh tếvà chính trị. Vào thời điểm đó đầu
tưvàng hóa ra là một cách đểtựbảo hiểm rủi ro. Vàng đóng vai trò tiền tệtrong
nhiều thếkỷvà không bao giờ được sửdụng trong quá trình sản xuất do đó nó
đã giữsức mua của nó vềlâu dài (Jastram, 1977). Vàng khác với các tài sản
khác bởi vì tiềm năng đối với vàng là tính thanh khoản cao và nó phản ứng với
những thay đổi giá (Lawrence, 2003). Hơn nữa, không giống nhưcác hàng hóa
khác, vàng được sản xuất đểtích lũy, tất cảsốvàng đã từng được khai thác vẫn
còn tồn tại đến ngày hôm nay (Ranson và Wainwright, 2005). Bởi vì vàng không
phải là đầu vào ngành công nghiệp chính, giá cảtương đối của nó không thay
đổi theo chu kỳkinh doanh (Ranson và Wainwright, 2005).
71 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa vàng và lạm phát tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang
1
CHƯƠNG 1:
CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ
VÀNG VÀ LẠM PHÁT
1.1 Vàng là dấu hiệu chỉ báo và bảo hiểm chống lại lạm phát.
Nghiên cứu này cố gắng điều tra xem liệu vàng hay dầu là chỉ báo tốt hơn về
lạm phát và cố gắng tìm ra giữa vàng và dầu, đâu là nhân tố cung cấp hàng rào
chống lại lạm phát tốt hơn ở Thổ Nhĩ Kỳ. Các mối quan hệ lâu dài giữa giá dầu,
vàng và tỷ lệ lạm phát đã được điều tra bằng cách sử dụng dữ liệu hàng tháng về
giá dầu, vàng và tỷ lệ lạm phát. Các dữ liệu bao gồm các giai đoạn từ ngày
10/02/1994 đến ngày 12/02/2008. Phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng chỉ số
CPI hiển thị một mối tương quan cao với cả giá vàng và giá dầu. Kết quả cũng
cho thấy vàng là một chỉ số dự báo lạm phát tốt hơn so với dầu. Nghiên cứu kết
luận rằng khả năng bảo hiểm rủi ro lạm phát của cả vàng và dầu phụ thuộc vào
sự tồn tại của một mối quan hệ ổn định lâu dài với tỷ lệ lạm phát, với lưu ý rằng
vàng và CPI cũng như giá dầu và CPI không có quan hệ đồng liên kết có nghĩa
là không có mối quan hệ lâu dài giữa tỷ lệ lạm phát và giá vàng, giá dầu.
Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods năm 1971, các nhà đầu tư bắt đầu
tìm kiếm các loại tiền tệ làm "nơi trú ẩn an toàn". Tuy nhiên các loại tiền tệ an
toàn nhất lại có liên quan đến nguy cơ kinh tế và chính trị. Vào thời điểm đó đầu
tư vàng hóa ra là một cách để tự bảo hiểm rủi ro. Vàng đóng vai trò tiền tệ trong
nhiều thế kỷ và không bao giờ được sử dụng trong quá trình sản xuất do đó nó
đã giữ sức mua của nó về lâu dài (Jastram, 1977). Vàng khác với các tài sản
khác bởi vì tiềm năng đối với vàng là tính thanh khoản cao và nó phản ứng với
những thay đổi giá (Lawrence, 2003). Hơn nữa, không giống như các hàng hóa
khác, vàng được sản xuất để tích lũy, tất cả số vàng đã từng được khai thác vẫn
còn tồn tại đến ngày hôm nay (Ranson và Wainwright, 2005). Bởi vì vàng không
phải là đầu vào ngành công nghiệp chính, giá cả tương đối của nó không thay
đổi theo chu kỳ kinh doanh (Ranson và Wainwright, 2005).
Trang
2
Hội đồng Vàng Thế giới (2005) tuyên bố vàng là một hàng rào hiệu quả chống
lạm phát, có tương quan nghịch với đồng đô la Mỹ và do đó là tiền tệ trú ẩn
chống lại lạm phát tốt. Nếu vàng là hàng rào hoàn hảo trong nội bộ một quốc gia
thì giá vàng tính theo đồng tiền trong nước đó nên tăng ở mức tương tự như chỉ
số giá trong nước. Nếu vàng là hàng rào hoàn hảo bên ngoài một quốc gia thì giá
vàng tính theo đồng tiền nước đó nên tăng cùng một tỷ lệ tương tự như tỷ giá
của nước đó. Vàng được coi là một hàng rào chống lại lạm phát nếu những thay
đổi trong lợi nhuận trên đầu tư vàng có thể bù đắp được những thay đổi trong
mức giá chung của một quốc gia cụ thể.
Sherman (1986), Jaffe (1989), Chua và cộng sự (1990) đã chứng minh rằng vàng
cung cấp lợi ích cho việc đa dạng hoá. Ariovich (1983), Aggarwal và cộng sự
(1992), Dooley và cộng sự (1995) chỉ ra rằng vàng là một hàng rào hiệu quả
chống lại lạm phát, tình trạng bất ổn chính trị và rủi ro tiền tệ.
Laurent (1994) điều tra các mối quan hệ giữa giá vàng và chỉ số giá bán buôn ở
Mỹ và kết luận rằng giá vàng và chỉ số giá bán buôn có quan hệ tương ứng chặt
chẽ từ năm 1888 đến năm 1992. Tuy nhiên giá vàng được tìm thấy biến động
hơn so với chỉ số giá bán buôn trong ngắn hạn. Garner (1995) kiểm tra các tín
hiệu bước ngoặt của giá vàng trong giai đoạn 1960-1995 tại Hoa Kỳ để xem giá
vàng có phải là chỉ báo tốt về lạm phát. Mahdavi và Zhou (1997) so sánh giá
vàng và giá hàng hóa, đâu là chỉ số lạm phát hàng đầu bằng cách áp dụng
phương pháp đồng liên kết qua các thời kỳ 1958:Q1-1994:Q4 và 1970:Q1-
1994:Q4. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá vàng có thể là chỉ báo lạm phát tốt
phụ thuộc vào khoảng thời gian kiểm tra. Harmston (1998) xây dựng sức mua
của các chỉ số vàng bằng cách chia các chỉ số vàng cho các chỉ số giá bán buôn
và so sánh các chỉ số này với nhau giữa các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật
Bản trong những khoảng thời gian khác nhau. Nghiên cứu của ông khẳng định
rằng vàng là nơi trú ẩn hiệu quả chống lại lạm phát lâu dài. Gosh và cộng sự
(2002) cũng kết luận rằng có một mối quan hệ lâu dài giữa giá vàng và chỉ số giá
bán buôn của Mỹ bằng cách sử dụng dữ liệu hàng tháng 1976-1999 với kỹ thuật
Trang
3
đồng liên kết. Ranson và Wainright (2005) áp dụng phương pháp bình phương
bé nhất (OLS) để xem liệu dầu hay giá vàng là chỉ báo tốt hơn về lạm phát và lãi
suất không dự kiến trước được. Nghiên cứu kết luận rằng giá vàng tốt hơn so với
giá dầu trong vai trò là yếu tố dự báo lạm phát năm tới.
Dữ liệu sử dụng trong phân tích được lấy từ tháng 01/1996 đến tháng 02/2008
với 146 quan sát. Dữ liệu bao gồm các quan sát hàng tháng của giá vàng, giá dầu
và tỷ lệ lạm phát dựa trên chỉ số giá tiêu dùng thu được từ Istanbul Gold
Exchange, Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ và Reuters.
Để đánh giá độ mạnh của mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ lệ lạm phát, dầu và tỷ
lệ lạm phát, phương pháp đơn giản nhất là nhìn vào cấu trúc tương quan của các
nhân tố được đo bằng hệ số tương quan. Kiểm định nghiệm đơn vị và tiêu chuẩn
ADF được áp dụng cho chuỗi số liệu giá vàng, giá dầu và chỉ số giá tiêu dùng để
xem xét các thuộc tính tĩnh của chúng.
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy CPI có liên quan chặt chẽ với cả giá
vàng và giá dầu với thực tế là vàng có tương quan với chỉ số CPI nhiều hơn so
với giá dầu. Các khả năng bảo hiểm rủi ro lạm phát của vàng và dầu phụ thuộc
vào sự tồn tại của một mối quan hệ ổn định lâu dài giữa tỷ lệ lạm phát và giá
vàng, giá dầu. Tuy nhiên, kiểm định đồng liên kết khẳng định rằng giá vàng và
CPI cũng như giá dầu và CPI không có quan hệ đồng liên kết, có nghĩa là không
có mối quan hệ lâu dài giữa tỷ lệ lạm phát và giá vàng, giá dầu.
1.2 Lạm phát gây nên sự tăng giá của vàng.
Điểm mới của bài nghiên cứu này là tiến hành phân tích về mối quan hệ đồng
liên kết và đồng bộ hoá giữa thị trường vàng và dầu giao ngay cũng như giao
sau. Tác giả đưa ra khung khái niệm rằng khi giá dầu tăng, tạo sức ép làm tăng
lạm phát, điều này thúc giục các nhà đầu tư đầu tư vào vàng để chống lại lạm
phát. Bài nghiên cứu cũng kiểm tra mối liên hệ dài hạn giữa giá vàng và giá dầu
trên thị trường giao sau ở các kỳ hạn thanh toán khác nhau và chứng cứ làm
sáng tỏ mối quan hệ đồng liên kết. Điều này hàm ý rằng: (a) các nhà đầu tư sử
dụng thị trường vàng làm công cụ chống lại lạm phát, và (b) thị trường dầu có
Trang
4
thể được sử dụng để dự đoán giá thị trường vàng, vì vậy hai thị trường này đều
cùng không hiệu quả.
Các tài liệu về thị trường vàng, bao gồm cả thị trường vàng giao sau, đã bao phủ
một số lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Ball và đồng sự (1985) kiểm tra các hành
vi giá hội tụ trên thị trường vàng giao sau và họ đã tìm thấy sự tồn tại của hội tụ
giá. Bertus và Stanhouse (2001) tìm kiếm bong bóng giá trong giá vàng tương
lai và sử dụng phân tích nhân tố năng động, đã không thể tìm thấy chứng cứ của
bong bóng đầu cơ hợp lý. Cai và đồng sự (2001) xem xét các yếu tố trong biến
động lợi nhuận hằng ngày của các hợp đồng vàng giao sau và thấy rằng trong số
23 thông báo về kinh tế vĩ mô của Mỹ, báo cáo việc làm, GDP, CPI, và thu nhập
cá nhân có tác động lớn đến biến động lợi nhuận của vàng. Ciner (2001) xem xét
các mối quan hệ dài hạn giữa giá vàng và giá bạc và không tìm thấy mối quan hệ
trong dài hạn giữa giá của hai kim loại này. Phát hiện của ông mâu thuẫn với
những nghiên cứu trước đó của Adrangi và đồng sự (2002), Wahab và đồng sự
(1994), Escribano và Granger (1998), tất cả những người này đều tìm thấy quan
hệ đồng liên kết giữa giá vàng và bạc giao sau. Bailey (1998) nghiên cứu tác
động của cung tiền đối với sự bất ổn của thị trường vàng và thấy rằng sự biến
động của vàng gia tăng khi tốc độ tăng trưởng của cung tiền cao hơn mong đợi.
Cùng mạch suy nghĩ, Christie – David và đồng sự (2000) phân tích tác động của
các tin tức vĩ mô phát ra đối với giá vàng và giá bạc, và họ thấy rằng giá vàng
phản ứng khá mạnh đối với tin CPI.
Thị trường vàng đã có sự tăng giá khá vững chắc trong suốt thập kỷ qua. Điển
hình trong suốt giai đoạn 2002 – 2008 mức tăng giá của vàng trung bình hàng
năm khoảng 18.5%. Cùng trong thời gian đó, giá dầu cũng tăng khá mạnh, ở
mức trung bình 53.9%. Điều này đưa ra câu hỏi: phải chăng thị trường dầu đang
dẫn dắt thị trường vàng? Nếu điều này xảy ra, có nghĩa là giá dầu có thể được sử
dụng để dự đoán giá của thị trường vàng và ngược lại. Điều này cũng có nghĩa là
có sự không hiệu quả trong cả hai thị trường.
Trang
5
Mối liên hệ giữa thị trường vàng và dầu có thể giải thích tốt nhất thông qua các
kênh lạm phát. Khi giá dầu tăng cao thì mức giá chung cũng tăng (xem thêm
Hunt, 2006; Hooker, 2002). Khi mức giá chung (hay lạm phát) tăng, giá vàng
cũng tăng do vàng cũng là một loại hàng hoá. Điều này mở ra khả năng là vàng
có thể được sử dụng để chống lại lạm phát (xem thêm Jaffe, 1989). Melvin và
Sultan (1990) cho rằng có một kênh khác để thiết lập mối quan hệ giữa thị
trường vàng và dầu. Luận điểm chính của họ là giá dầu tác động tới giá vàng
thông qua kênh doanh thu xuất khẩu. Về cơ bản vàng là một phần của kênh đầu
tư dự trữ quốc tế của một vài quốc gia bao gồm cả các quốc gia xuất khẩu dầu,
họ lập luận rằng nếu có một cú sốc dẫn tới mong đợi việc mua vàng thì dự kiến
trong tương lai giá vàng sẽ tăng lên. Khi giá dầu tăng, những nhà xuất khẩu dầu
thu lợi từ việc dầu tăng, Melvin và Sultan (1990) lập luận rằng điều này sẽ có
thể tác động đến giá vàng, miễn là vàng bao gồm một phần quan trọng trong
danh mục đầu tư tài sản của những nhà xuất khẩu dầu (liên quan đến các quốc
gia khác) và họ sẽ mua vàng tương ứng với sự giàu có của mình. Điều này sẽ
dẫn đến sự gia tăng nhu cầu về vàng và vàng sẽ tăng giá. Do đó giá dầu tăng cao
kéo theo sự tăng giá của vàng.
Bài nghiên cứu đưa ra ba giả thuyết:
Giả thuyết 1: sự tăng giá của dầu gây ra lạm phát
Giả thuyết 2: lạm phát gây nên sự tăng giá của vàng
Giả thuyết 3: nếu giả thuyết 2 là đúng thì sự tăng giá dầu gây ra sự tăng giá
của vàng.
Dữ liệu được sử dụng là giá vàng và giá dầu giao ngay hàng năm trong giai đoạn
1963-2008 đối với nước Mỹ. Giá dầu là trung bình giá xăng dầu của thế giới,
trong khi giá vàng được đo lường bởi đơn vị tính USD/Oz. Tỷ lệ lạm phát được
tính toán từ tốc độ tăng trưởng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Ba dữ liệu này cụ
thể là giá vàng, giá dầu trung bình và CPI được lấy từ thống kê tài chính quốc tế,
được xuất bản bởi quỹ tiền tệ quốc tế.
Trang
6
Đồ thị 1.1: Tốc độ tăng của giá vàng, giá dầu và tỷ lệ lạm phát của Mỹ trong giai
đoạn 1963-2008
Các quan sát chính là tốc độ tăng trưởng của giá dầu và giá vàng giao ngay di
chuyển rất chặt chẽ với nhau, trong khi lạm phát ổn định mà không có sự chênh
lệch đáng kể so với tốc độ tăng của giá vàng và giá dầu. Vì vậy, mối quan hệ
giữa lạm phát và giá dầu; lạm phát và giá vàng rõ ràng không phải là đồ hoạ.
Tác giả xác nhận điều này dựa vào kinh nghiệm sau đó bằng cách tiếp cận
phương pháp bình phương nhỏ nhất. Liên quan đến ba giả thuyết thảo luận ở
trên, bài nghiên cứu đưa ra ba mô hình hồi quy tương ứng với từng giả thuyết
như sau:
Giả thuyết 1: πt = α0 + α1goilt + εt
Giả thuyết 2: ggoldt = β0 + β1πt + µt
Giả thuyết 3: ggoldt = θ0 + θ1goilt + ωt
Trang
7
Trong đó π, goil, ggold là tốc độ tăng trưởng của CPI (lạm phát), bình quân giá
dầu, và giá vàng. Số dư của những mô hình này được xác định tương ứng là ε, µ,
và ω.
Kết quả của phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS) tương ứng
với ba giả thuyết như sau:
πt = 0.039 + 0.041goilt + εt
(10.759) (3.358)
ggoldt = -0.064 + 3.119πt + µt
(-1.162) (2.870)
ggoldt = 0.039 + 0.365goilt + ωt
(1.430) (3.842)
Kết quả thực nghiệm trong ngắn hạn hỗ trợ cho những giả thuyết thảo luận trên
về mối quan hệ giữa giá vàng và giá dầu; nói cách khác, kết quả tìm thấy sự hỗ
trợ cho cả ba giả thuyết. Tóm lại: (a) sự gia tăng giá dầu gây ra lạm phát, (b) sự
gia tăng lạm phát dẫn đến sự tăng giá của vàng, và (c) sự tăng giá của dầu làm
cho vàng tăng giá.
Một vài nghiên cứu đã kiểm tra mối quan hệ giữa giá vàng và các biến kinh tế vĩ
mô khác, ví dụ như lạm phát cũng được tìm thấy có ý nghĩa thống kê đáng kể và
có mối quan hệ cùng chiều với giá vàng. Một nghiên cứu khác của Jaffe (1989)
nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và lợi nhuận của vàng sử dụng số liệu
hàng tháng trong giai đoạn từ tháng 9/1971 đến tháng 6/1987. Dựa trên phương
pháp ước lượng bình quân nhỏ nhất (OLS), ông thấy rằng trung bình chỉ số giá
tăng 1% kéo theo giá vàng thay đổi khoảng 2.95%. Kết quả của bài nghiên cứu
này cũng tương tự - tác giả tìm thấy sự tác động khoảng 3.1% - mặc dù cỡ mẫu
được sử dụng trong hai nghiên cứu khác nhau hoàn toàn. Cỡ mẫu bài nghiên cứu
sử dụng là từ năm 1963 – 2008 cũng là cỡ mẫu mới nhất và được xem xét trong
giai đoạn gần đây về sự tăng giá đáng kể của giá vàng.
Bài nghiên cứu này đóng góp thêm vào nghiên cứu thị trường giao sau bằng
cách kiểm tra các mối quan hệ dài hạn giữa giá dầu và giá vàng giao ngay và
Trang
8
giao sau ở các kỳ hạn khác nhau. Các lý thuyết động lực cho mối quan hệ này
bắt nguồn từ việc các nhà đầu tư sử dụng thị trường vàng để chống lại lạm phát.
Sử dụng phương pháp đồng liên kết, nghiên cứu cho thấy thị trường vàng và thị
trường dầu giao ngay cũng như là giao sau có sự liên kết chặt chẽ trong kỳ hạn
10 tháng. Phát hiện này hàm ý rằng các nhà đầu tư sử dụng thị trường vàng như
một hàng rào chống lại lạm phát. Nó cũng ngụ ý rằng thị trường dầu có thể được
sử dụng để dự đoán giá thị trường vàng và ngược lại, do đó cả hai thị trường này
cùng không hiệu quả.
1.3 Sự tác động của giá vàng đối với lạm phát
Sử dụng dữ liệu của 14 quốc gia trong giai đoạn 1994-2005, nghiên cứu tìm thấy
giá vàng đem lại thông tin đáng kể cho việc dự báo lạm phát trong tương lai đối
với một số nước, đặc biệt là những nước đã áp dụng chính sách lạm phát mục
tiêu chính thức.
Một số chỉ số hàng đầu được theo dõi bởi các ngân hàng trung ương và các cơ
quan khác trong nền kinh tế để dự báo tỷ lệ lạm phát. Giá các tài sản tài chính
cũng được tìm thấy hữu ích đối với thuộc tính chỉ báo hàng đầu của lạm phát vì
tỷ suất sinh lợi của chúng đã tính đến lạm phát kỳ vọng, nhưng sức mạnh dự
đoán của các tài sản tài chính chỉ được tìm thấy trong một số giai đoạn và đối
với một số nước nhất định, xem thêm khảo sát của Stock và Watson (2003).
Trong số tài sản tài chính đó, có thể kế đến giá vàng. Trong thực tế, vàng thường
được phân tích với vai trò là hàng hoá, nhưng không giống các hàng hóa thông
thường khác, vàng có sự khác biệt lịch sử, vàng đã và đang được sử dụng để bảo
tồn giá trị và là nơi trú ẩn để chống lại lạm phát. Nếu xem vàng là một loại tài
sản tài chính, vàng có thể được kỳ vọng để xác định là nhân tố dự báo hàng đầu
cho lạm phát. Các nghiên cứu gần đây đã kiểm tra các chỉ báo hàng đầu khác
nhau cho lạm phát, như là nghiên cứu của Stock và Watson (1999), Cecchetti,
Chu và Steindel (2000), Boivin và Ng (2006) và Banerjee và Marcellino (2006)
đã không xem là giá vàng như là một ứng cử viên của chỉ báo hàng đầu. Tuy
nhiên, với sự đồng thuận chung đang nổi lên từ những nghiên cứu này cho thấy
Trang
9
rằng rất khó khăn để tìm một chỉ số hàng đầu cho lạm phát mà có thể thể hiện tốt
bước ngẫu nhiên (random walk), nên việc xem xét giá vàng tại thời điểm này có
thể là một quyết định đáng giá.
Vàng là một tài sản đặc biệt, vì vàng vừa là một loại hàng hóa, ví dụ trong việc
sản xuất đồ trang sức và các thiết bị công nghiệp, vừa là tài sản tài chính, nơi nó
có thể được sử dụng như để bảo tồn giá trị. Vàng không có đối thủ trong việc
làm tài sản để bảo tồn giá trị sau cùng, vì nó có một lợi thế tâm lý hơn các tài
sản khác xuất phát từ việc sử dụng nó cho mục đích này bao trùm nhiều thế kỷ
qua.
Bài nghiên cứu này mong muốn thiết lập được với những chuyển động trong giá
vàng, với một mức độ nào đó, có thể dự báo được mức độ lạm phát trong tương
lai. Về lý thuyết, sự gia tăng kỳ vọng lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền,
do đó, sẽ có tâm lý tìm đến vàng để bảo tồn giá trị. Điều này sẽ làm tăng nhu cầu
vàng, khiến giá vàng tăng cao, do đó, giá vàng càng cao là tín hiệu cho thấy tỷ lệ
lạm phát cao hơn trong tương lai. Lưu ý rằng, đối với bất kỳ quốc gia cụ thể, tỷ
lệ lạm phát được tính bằng cách sử dụng giá trị đồng nội tệ. Vì là một nơi trú ẩn
chống lại lạm phát, các nhà đầu tư phải xem xét tỉ lệ lợi nhuận từ vàng thể hiện
bằng đơn vị đồng nội tệ. Bởi vì giá vàng được xác định tại các thị trường thế
giới và được định giá bằng USD, nên giá vàng trước hết phải được nhân bởi tỷ
giá hối đoái hiện hành trước khi tính toán tỷ suất sinh lợi của nó.
Trong nghiên cứu này sử dụng dữ liệu hàng tháng kéo dài trong giai đoạn từ
tháng 09/1994 đến tháng 12/2005 của 14 quốc gia. Dữ liệu giá vàng được sử
dụng là giá vàng hàng tháng được tính trung bình từ giá hàng ngày với đơn vị
tính USD/Oz. Tỷ lệ lạm phát được tính bằng sử dụng chỉ số giá tiêu dùng của
các nước. Tỷ giá hối đoái được lấy từ nguồn dữ liệu thống kê tài chính quốc tế
của IMF.
Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu cho thấy giá vàng có thể dự báo tốt cho
lạm phát đối với nhiều nước với khoảng thời gian lên đến hai năm. Kết quả
nghiên cứu cho thấy:
Trang
10
- Giá vàng là một chỉ số thống kê đáng kể nhất đối với các nước OECD đã
thông qua chính sách lạm phát mục tiêu. Cụ thể nếu giá vàng thế giới tăng
10% thời gian này, tỷ lệ lạm phát tại Canada sẽ tăng 0,25% trong 12 tháng kế
tiếp. Tại New Zealand, quốc gia đầu tiên đã thực hiện chính sách lạm phát
mục tiêu, 10% gia tăng của giá vàng thế giới sẽ dẫn đến một sự gia tăng
1,1% trong tỷ lệ lạm phát trong 24 tháng tới, nếu tỷ giá vẫn không đổi.
- Đối với các nước OECD không thông qua chính sách lạm phát mục tiêu
chính thức, như Nhật Bản và Mỹ, nghiên cứu cho thấy sức mạnh giải thích
của vàng đối với lạm phát nói chung là yếu hơn. Vàng là một yếu tố dự báo
quan trọng của lạm phát ở Mỹ trong vòng một năm mặc dù mức độ phù hợp
của phương trình này là tương đối khiêm tốn. Vàng không cho thấy được yếu
tố dự báo đối với lạm phát tại Nhật Bản.
- Đối với các nước ngoài nhóm OECD, vàng là dấu hiệu chính xác cho lạm
phát tại Trung Quốc trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm. Cụ thể
vàng tăng giá 10% sẽ kéo theo tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc tăng 1.2% trong
12 tháng tiếp theo; tuy nhiên, chất lượng của các dự báo này có thể bị ảnh
hưởng bởi tỷ giá hối đoái của Trung Quốc, được cố định trong suốt phần lớn
của mẫu thời gian nghiên cứu.
Một so sánh sâu hơn của giá vàng với các chỉ số lạm phát khác cho Canada
chứng tỏ vàng vẫn còn ý nghĩa thống kê khi được ghép đôi với các biến khác,
chẳng hạn như tiền, khoảng cách sản lượng, lạm phát của Mỹ hoặc giá dầu.
1.4 Tác động của sự thay đổi trong lạm phát kỳ vọng đến giá vàng.
Bài nghiên cứu này xem xét những thay đổi trong lạm phát kỳ vọng tác động
đến giá vàng giao ngay như thế nào. Các bài báo tài chính thường đề cập đến
việc giá vàng chịu ảnh hưởng bởi những thay đổi trong lạm phát kỳ vọng. Bài
nghiên cứu này xem xét và kiểm tra thực nghiệm lý thuyết trên cơ sở mối quan
hệ giả thuyết. Nó cũng cho thấy rằng cơ sở lý thuyết cho mối quan hệ này là
không rõ ràng. Những người ủng hộ lý thuyết hiệu ứng lạm phát kỳ vọng lập
luận rằng nếu lạm phát kỳ vọng tăng lên, các nhà đầu tư sẽ mua vàng để đầu cơ
Trang
11
trên sự tăng giá của vàng hoặc để chống lại sự mất giá của đồng tiền pháp định.
Dù bằng cách nào các áp lực mua vàng sẽ gây ra một sự gia tăng giá vàng ngay
lập tức. Bài nghiên cứu này cũng xem xét tác động của lạm phát đến lãi suất và
chi phí của việc giữ vàng. Sự gia tăng trong lạm phát kỳ vọng sẽ làm giá vàng
tăng cao hơn, tuy nhiên nó cũng làm cho lãi suất tăng lên và