Có thể nói công nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh là một bộ phận của công nghiệp chế biến thực phẩm, được Nhà nước rất quan tâm. Đó là việc thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng các nguyên liệu đầu vào thông qua các quá trình cơ - nhiệt - hoá và sinh học, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ và đem lại hiệu quả cao.
90 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Có thể nói công nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh là một bộ phận của công nghiệp chế biến thực phẩm, được Nhà nước rất quan tâm. Đó là việc thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng các nguyên liệu đầu vào thông qua các quá trình cơ - nhiệt - hoá và sinh học, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ và đem lại hiệu quả cao.
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều bắt đầu công nghiệp hoá bằng phát triển công nghiệp chế biến. Vì công nghiệp chế biến cho phép sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, nó là nhân tố hết sức quan trọng kích thích nền kinh tế tăng trưởng nhanh và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, đồng thời thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
Công nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh là một bộ phận của công nghiệp chế biến nói chung, nó được phát triển mạnh mẽ trên thế giới do ứng dụng tiến bộ khoa học trong công nghệ đông lạnh. Hơn nữa thuỷ sản là một ngành cung cấp những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao (tỷ lệ đạm cao) như tôm, cá, cua, ghẹ, ba ba… mà Việt Nam là nước có lợi thế rất lớn về nguồn lợi thuỷ sản, với 3260 km2 thềm lục địa và 2 triệu km2 mặt nước. Sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2 triệu tấn/năm.
Tuy nhiên, để thực sự trở thành nền kinh tế mũi nhọn, tăng tốc độ phát triển và ổn định cần phải có sự đóng góp không nhỏ của tất cả các đơn vị kinh tế trong ngành, đặc biệt là các công ty chế biến. Chính vì vậy, công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh cũng như các đơn vị chế biến khác của nước ta hiện nay làm sao phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ và nâng cao được hiệu quả kinh doanh là một việc làm hết sức cần thiết. Do vậy, các công ty cần phải luôn phân tích, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình để tìm ra mặt hạn chế và cách khắc phục những điểm yếu còn tồn tại. Bên cạnh đó, công ty phải tìm cách khai thác có hiệu quả tiềm năng nguồn lực, thế mạnh của mình trong sản xuất kinh doanh.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế và tìm các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh chúng tôi nghiên cứu đề tài:
“Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh”.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu nhằm
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn khi đánh giá hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phân tích hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh.
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh.
1.4. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Phạm vi không gian
Đề tài được nghiên cứu tại công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh.
- Pham vi thời gian
Thu thập số liệu, phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm (2003, 2004, 2005).
PHẦN THỨ HAI
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
2.1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình tái sản xuất trải qua các giai đoạn T – H – SX – H’ – T’. Doanh nghiệp dùng tiền mua vật tư, thiết bị, công nghệ, kết hợp với sức lao động tạo ra hàng hoá; bán hàng hoá đi thu tiền với mục đích thu được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra ban đầu.
Như vậy, quá trình sản xuất kinh doanh chính là sự phối hợp toàn diện, thống nhất của nhiều giai đoạn, kết quả thực hiện ở mỗi giai đoạn đều ảnh hưởng đến kết quả của cả quá trình. Qua quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh, hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại bao gồm nhiều mặt: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tập chung nghiên cứu hiệu quả kinh tế. Tác giả Thái Bá Cẩn cho rằng: “việc phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế và tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế là vấn đề rất khó khăn phức tạp về lý luận cũng như thực tiễn chưa giải quyết triệt để”.
Có quan điểm cho rằng: Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế. Quan điểm này không phù hợp bởi vì cùng một kết quả sản xuất nhưng với hai mức chi phí khác nhau thì hiệu quả cũng khác nhau.
Có quan điểm cho rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc tổng thu nhập quốc dân. Hiệu quả sẽ cao khi nhịp độ tăng cao. Quan điểm này chưa đúng, bởi vì các yếu tố bên trong và bên ngoài nền kinh tế có ảnh hưởng khác nhau.
Có quan điểm lại cho rằng: hiệu quả kinh tế là thước đo độ hữu ích của sản phẩm. Quan điểm này không thuyết phục vì giá trị sử dụng của mỗi sản phẩm khác nhau tuỳ thuộc vào công dụng của sản phẩm đó và nhu cầu của người sử dụng đối với sản phẩm. Không thể so sánh các sản phẩm khác nhau nếu chỉ căn cứ vào giá trị sử dụng của chúng.
Quan điểm khác cho rằng: Trong lĩnh vực SXKD, ở bất kỳ phạm vi nào, các nhà sản xuất đều tìm cách huy động và kết hợp các yếu tố đầu vào sao cho chi phí ở mức nhỏ nhất và giá trị sản phẩm sản xuất là cao nhất. Mọi quá trình sản xuất đều liên quan mật thiết đến hai yếu tố cơ bản, đó là chi phí và kết quả thu được từ chi phí đó.
Quan điểm khác cho rằng: Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra với phần chi phí các yếu tố nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó được xét cả về so sánh tương đối và tuyệt đối, cũng như xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
Với các hệ thống quan điểm trên đây chúng ta xét thấy khái niệm về hiệu quả kinh tế chưa được đầy đủ và toàn diện. Do vậy, cần có khái niệm bao quát hơn, chính xác hơn: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế liên quan đến sản xuất hàng hoá. Hiệu quả kinh tế biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với lượng chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó: với một nguồn lực nhất định làm thế nào để tạo ra được nhiều sản phẩm nhất hoặc tạo ra lượng sản phẩm nhất định với chi phí bỏ ra ít nhất. Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ khai thác và sử dụng các nguồn lực.
2.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh tế
Bản chất của HQKT xuất phát từ mục đích của sản xuất và sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đó là sự thoả mãn ngày càng tăng về nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Đánh giá kết quả sản xuất là đánh giá về mặt số lượng, giá trị sản phẩm sản xuất ra đã thoả mãn được nhu cầu của xã hội hay không, còn đánh giá hiệu quả sản xuất tức là xem xét tới mặt chất lượng của quá trình sản xuất đó.
Nói đến hiệu quả kinh tế chúng ta không thể không xem xét tới công trình nghiên cứu của Farrell (1957) trình bày rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế. Khi nghiên cứu hoạt động kinh tế của các nhà sản xuất ngang tài ngang sức và tiêu biểu nhưng lại đạt kết quả khác nhau do cách kinh doanh khác nhau và như vậy thì chỉ có thể ước tính đầy đủ hiệu quả kinh tế theo nghĩa tương đối. Để giải thích kết luận này ông phân biệt hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ và hiệu quả kinh tế.
- Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency): Là khả năng tác động của kỹ thuật nhằm thu được kết quả sản xuất tối đa, với yếu tố đầu vào xác định, trong điều kiện sản xuất nhất định. Hiệu quả kỹ thuật mang tính xã hội, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
- Hiệu quả phân bổ (Allocative Efficiency): Là việc nghiên cứu cách thức tổ chức quản lý khoa học để với các yếu tố đầu vào cố định, người sản xuất có thể thu được lợi nhuận tối đa, có xem xét tới yếu tố đầu vào, đầu ra.
Hiệu quả kinh tế = hiệu quả kỹ thuật U hiệu quả phân bổ
Ta thấy hiệu quả kỹ thuật chỉ liên quan đến những đặc tính của sản xuất vật chất, mục đích này phổ biến thích hợp với mọi hệ thống kinh tế, nó mang tính chất xã hội. Hiệu quả phân bổ liên quan đến yếu tố tổ chức quản lý sản xuất nhằm đạt mục đích kinh tế của người sản xuất có lợi nhuận tối đa.
2.1.3. Các quan điểm về hiệu quả kinh tế
Có rất nhiều quan điểm về hiệu quả kinh tế, song bản chất chung của hiệu quả kinh tế chính là sự so sánh giữa kết quả sản xuất thu được với chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Người ta có thể quy về ba hệ thống quan điểm sau:
Hệ thống quan điểm thứ nhất: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó trong một thời gian nhất định.
Công thức: H = Q – K
Trong đó: H - Hiệu quả kinh tế
Q - Kết quả đạt được
K - Chi phí sản xuất bỏ ra
Theo quan điểm này, hiệu quả kinh tế được thể hiện bằng số tuyệt đối.
Hệ thống quan điểm thứ hai: Hiệu quả kinh tế là tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí sản xuất bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Theo quan điểm này, hiệu quả kinh tế được thể hiện bằng số tương đối.
Công thức: Q K
H = (1a); H = (1b)
K Q
Hệ thống quan điểm thứ ba: Hiệu quả kinh tế là tỷ lệ phần tăng thêm của kết quả so với phần tăng thêm của chi phí.
Công thức: ∆Q ∆K
H = (2a); H = (2b)
∆K ∆Q
Trong đó: ∆Q – Phần tăng thêm của kết quả
∆K – Phần tăng thêm của chi phí
Theo quan điểm này, các nhà kinh tế chỉ quan tâm đến hiệu quả của phần mở rộng, phần tăng thêm của sản xuất trong kỳ. Quan điểm này không đề cập đến mức chi phí ban đầu đã bỏ ra cũng như kết quả đã thu được tương ứng với mức đầu tư đó.
Mỗi hệ thống quan điểm trên đều có những ưu và nhược điểm nhất định.
Hệ thống quan điểm thứ nhất cho biết kết quả một cách cụ thể, chính xác, phản ánh quy mô khối lượng rõ ràng, song chưa phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực, chưa nghiên cứu kết quả đạt được trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố đầu vào (với cùng kết quả như nhau nhưng sử dụng nguồn lực khác nhau thì hiệu quả kinh tế cũng khác nhau), chưa rút ra được bản chất và xu hướng kinh doanh.
Hệ thống quan điểm thứ ba cho phép phân tích so sánh giữa mức độ tăng trưởng của kết quả và mức tăng thêm của chi phí biến đổi, phản ánh được trình độ sử dụng nguồn lực song không phản ánh được quy mô sử dụng nguồn lực, chưa cho biết kết qủa bằng số liệu cụ thể có sức thuyết phục. Nếu chỉ sử dụng quan điểm thứ ba thì có thể doanh nghiệp có hiệu quả kinh tế nhưng toàn xã hội lại không đạt hiệu quả kinh tế vì nguồn lực bị khan hiếm, bị giới hạn. Quan điểm này thường được áp dụng khi phân tích hiệu quả đầu tư theo chiều sâu hay áp dụng các biện pháp thâm canh để lựa chọn phương án cho phù hợp.
Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước: Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế liên quan đến sản xuất hàng hoá, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, phản ánh chất lượng của các hoạt động SXKD, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực trong sản xuất. Khi phân tích hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh người ta phải kết hợp các hệ thống quan điểm với nhau, trong đó các doanh nghiệp thường chú trọng sử dụng hệ thống quan điểm thứ hai (H = Q/K). H > 1 chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có lãi, H càng lớn có nghĩa là hiệu quả kinh tế càng cao.
2.1.4. Hiệu quả kinh tế trên quan điểm kinh tế học sản xuất
Xã hội chịu sự chi phối bởi quy luật khan hiếm nguồn lực, thực tế các nguồn lực như đất đai, lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên... khan hiếm. Trong khi đó nhu cầu của xã hội tăng nhanh cả về số lượng, chất lượng. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải tiết kiệm nguồn lực, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực nói chung, trước hết mỗi quá trình sản xuất phải lựa chọn đầu vào tối ưu. Khi đề cập tới hiệu quả các nguồn lực, thông thường người ta nói tới hiệu quả kinh tế về việc sử dụng các nguồn lực đó. Hiệu quả sản xuất đã được nhiều học giả bàn tới như Farrell (1957), Schultz (1964), Rizzo (1979), Ellis (1993). Các học giả đều đi đến thống nhất là phải phân biệt rõ ba khái niệm cơ bản về hiệu quả :
Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency)
Hiệu quả phân bổ (Allocative Efficiency)
Hiệu quả kinh tế (Economic Efficiency)
Khi bàn về lý thuyết về hiệu quả sản xuất như Farell (1957) đã đưa ra hiệu quả của một doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận cấu thành. Một là hiệu quả kỹ thuật, phản ánh khả năng của doanh nghiệp tối đa hoá sản lượng đầu ra với một lượng đầu vào và công nghệ nhất định. Hai là hiệu quả phân bổ, phản ánh khả năng của doanh nghiệp sử dụng đầu vào ở quy mô tốt nhất với mức giá và công nghệ sản xuất nhất định. Khi hãng đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì sẽ đạt HQKT.
Xác định hiệu quả kỹ thuật đã đạt được của doanh nghiệp sẽ giúp chúng ta đi đến quyết định nên thay đổi công nghệ sản xuất hay tiếp tục nâng cao hiệu quả kỹ thuật để nâng cao sản lượng đầu ra.
Hiệu quả kỹ thuật rất quan trọng trong phát triển sản xuất, đặc biệt ở những nước đang và chậm phát triển, các nước có nguồn lực khan hiếm, ít có cơ hội phát triển và phát triển công nghệ mới là cực kỳ khó khăn. Ở các nước này có thể nâng cao lợi ích kinh tế bằng cách nâng cao hiệu quả kỹ thuật mà không cần đầu tư thêm nguồn lực hay phát triển công nghệ mới.
2.2. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH
Thông qua quá trình tổ chức sản xuất, đáp ứng nhu cầu về hàng hoá dịch vụ cho xã hội, mục tiêu của các doanh nghiệp là tìm kiếm sự chênh lệch giữa kết quả và chi phí (chính là lợi nhuận). Trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh, hiệu quả kinh tế đồng nghĩa với lợi nhuận. Muốn đạt lợi nhuận tối đa, người ta cần quan tâm đến các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu, là mục tiêu của mọi nền sản xuất bởi vì:
- Bản chất của hiệu quả là nâng cao năng suất lao động xã hội, tiết kiệm mọi hao phí lao động cần thiết. Tiết kiệm hao phí lao động là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất xã hội.
- Các nguồn lực bị giới hạn và ngày càng khan hiếm, trong khi nhu cầu của xã hội ngày càng cao, đòi hỏi sử dụng nguồn lực phải khoa học, hiệu quả.
Hiệu quả kinh tế có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Có hiệu quả, doanh nghiệp mới có điều kiện để đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp, mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh tế trong SXKD là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, có ý nghĩa sống còn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ
Hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất kinh doanh dưới cái nhìn tổng quát nó phản ánh mối quan hệ tương quan giữa chi phí bỏ ra cho đầu vào và kết quả thu được ở đầu ra. Đồng thời phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt hiệu quả mong muốn. Để có được kết quả như ý muốn, tất cả các công ty, doanh nghiệp phải tính đến các yếu tố có thể ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến kết quả của mình. Đó có thể là yếu tố ngay trong bản thân doanh nghiệp nhưng cũng có thể là các tác động từ bên ngoài cụ thể như sau:
2.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan bên trong doanh nghiệp
Ta chỉ xét đến những doanh nghiệp, công ty làm ăn vì mục đích kinh tế, sự tồn tại và phát triển của chúng phụ thuộc trực tiếp vào phương tiện và con người sử dụng phương tiện đó và hơn cả là sự kết hợp các yếu tố này với nhau. Các yếu tố đó gồm: lao động, nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ của ban quản trị… Mỗi sự thay đổi của các yếu tố đó có thể có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất của đơn vị, doanh nghiệp đó.
* Nhân tố lao động
Lao động là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất.
Lao động trong doanh nghiệp là toàn bộ đội ngũ lao động với trình độ tay nghề và năng lực cá nhân riêng. Vai trò tích cực của người lao động trong doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng tiếp thu tay nghề cùng với ý thức chấp hành kỷ luật lao động cũng như khả năng của người lao động trong việc phân công công việc vào chế độ tiền lương, thưởng cho lao động của doanh nghiệp.
Chất lượng lao động là yếu tố quyết định đến hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, nó liên quan đến sức khoẻ và sự gắn bó của người lao động với doanh nghiệp. Chất lượng lao động phụ thuộc vào trình độ thành thạo tay nghề của công nhân (số công nhân ở từng bậc thợ, số công nhân đã qua đào tạo, số công nhân có trình độ cơ khí hoá, tự động hoá…) của doanh nghiệp. Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ tiến bộ rất nhanh, đòi hỏi chất lượng lao động không ngừng được tăng lên, lao động phải có văn hoá, có tri thức, nắm bắt được khoa học kỹ thuật, trình độ lành nghề, phải thường xuyên nâng cao trình độ thì mới có thể điều khiển máy móc trang thiết bị hiện đại, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, phục vụ nhu cầu sản xuất hàng hoá để xuất khẩu. Chất lượng lao động còn phụ thuộc vào trình độ quản lý, cách thức tổ chức sản xuất của bộ máy gián tiếp.
Tóm lại, người lao động và chất lượng lao động của họ sẽ giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển hoặc kéo doanh nghiệp thụt lùi… Chính sách quản lý lao động phải động viên, khuyến khích người lao động đem hết khả năng, sức lực cống hiến cho doanh nghiệp. Nếu làm tốt doanh nghiệp sẽ tạo được đội ngũ lao động có trình độ và chất lượng cao, qua đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật – công nghệ
Nhân tố này có ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện tới hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó quyết định quy mô sản xuất, năng suất lao động, chiến lược sử dụng các nguồn lực sản xuất. Công nghệ được hiểu là tất cả các phương thức, những quá trình áp dụng khoa học kỹ thuật để chuyển hoá các nguồn lực sản xuất, là tập hợp các quá trình sử dụng các yếu tố, điều kiện nhằm mục đích tạo ra sản phẩm với chất lượng tốt nhất với giá cả phù hợp.
Quyết định về công nghệ phải phù hợp với từng giai đoạn của quá trình sản xuất, phù hợp với trình độ và năng lực của những người trực tiếp sử dụng công nghệ nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh.
* Lựa chọn và tổ chức các yếu tố đầu vào
Đây là yếu tố có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp chế biến. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có nguồn đầu vào chủ yếu là nguyên liệu chính, đây là công việc đầu tiên của các nhà kinh doanh. Yêu cầu cơ bản đặt ra là phải cung cấp đầy đủ, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại nguyên liệu cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh. Việc cung cấp đầy đủ, đúng tiến độ, đúng nhu cầu của nơi sản xuất sẽ góp phần đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiếp tục duy trì và thu hút khách hàng hơn nữa. Cung cấp đúng, đủ và đảm bảo chất lượng của nguyên liệu sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch sản xuất.
Đối với công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh, do đặc thù của hoạt động sản xuất kinh doanh là chế biến hàng xuất khẩu nên nguyên liệu đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nguyên liệu chính dùng cho sản xuất là thuỷ, hải sản như tôm, cá, mực... nên công ty phải hết sức chú ý đến vấn đề thu mua và bảo quản nguyên liệu do những yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm mà Bộ y tế ban hành.
Như vậy, việc thu mua nguyên liệu, bảo quản chúng một cách tối ưu, việc tổ chức các phương án xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu, việc kiểm tra chất lượng nguyên liệu... là những nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Thông tin và văn hoá trong doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự trao đổi thông tin qua lại giữa những người trực tiếp lãnh đạo với các bộ phận, phòng ban, các phân xưởng sản xuất sẽ truyền đi những thông tin có liên quan đến hoạt động của bộ phận m