Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở công ty vật tư kỹ thuật xi măng

Từ lâu trên thế giới, trong kinh doanh đã có một phương châm: business is business - kinh doanh là kinh doanh - ngụ ý là: trong kinh doanh không có chỗ cho tình cảm, kinh doanh là cạnh tranh gay gắt, không nể nang, không khoan nhượng,. Phương châm này gần như đã lột tả hết tính chất quyết liệt của sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

doc75 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở công ty vật tư kỹ thuật xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ lâu trên thế giới, trong kinh doanh đã có một phương châm: business is business - kinh doanh là kinh doanh - ngụ ý là: trong kinh doanh không có chỗ cho tình cảm, kinh doanh là cạnh tranh gay gắt, không nể nang, không khoan nhượng,... Phương châm này gần như đã lột tả hết tính chất quyết liệt của sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Do đó, một doanh nghiệp muốn thành công trong kinh doanh, muốn chiến thắng trong cạnh tranh thì doanh nghiệp ngoài việc phải luôn luôn thay đổi, còn phải tìm mọi biện pháp để có thể thích ứng được với sự cạnh tranh trên thị trường. Từ đó một trong những biện pháp có thể giúp doanh nghiệp đạt được điều này là luôn luôn tìm cách củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ của mình. ở nước ta, sau hơn mười năm chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, sự cạnh tranh đã bắt đầu xuất hiện và ngày càng trở nên gay gắt. Điều đó bắt buộc tất cả các doanh nghiệp Việt Nam phải ra sức nghiên cứu, tìm tòi một hướng đi (phù hợp với các điều kiện của doanh nghiệp) có thể giúp doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên do mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên các doanh nghiệp Việt Nam không tránh khỏi những bỡ ngỡ ban đầu trong quá trình tìm hướng đi cho doanh nghiệp mình. Xuất phát từ các nguyên nhân trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp cơ bản nhằm củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở công ty vật tư kỹ thuật xi măng” nhằm mục đích: từ những lý thuyết mới, từ kinh nghiệm của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đưa ra một số biện pháp và phương hướng giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể tồn tại và phát triển thông qua việc củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, trong luận văn dựa vào lý thuyết kết hợp với thực tiễn tại Công ty vật tư kỹ thuật xi măng, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh hơn quá trình củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ tại công ty. Do nội dung của đề tài hết sức rộng về cả lý thuyết lẫn thực tế nên trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp tôi chỉ xin đề cập những nội dung chính, được chia thành ba chương như sau: Chương I: Lý luận chung về thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng công tác củng cố và mở rộng thị trường tại công ty vật tư kỹ thuật xi măng. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở công ty vật tư kỹ thuật xi măng. Chương I Lý luận chung về thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. I. Đại cương về kinh tế thị trường. 1. Khái niệm, vai trò và chức năng của thị trường. 1.1. Khái niệm về thị trường. Thị trường là một phạm trù khách quan, nó xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá và được hình thành trong lĩnh vực lưu thông. Người có hàng hoá hoặc dịch vụ đem ra trao đổi được gọi là bên bán,người có nhu cầu chưa thoả mãn và có khả năng thanh toán được gọi là bên mua. Trong quá trình trao đổi trên thị trường đã hình thành nên những mối quan hệ nhất định, đó là quan hệ giữa người bán và người mua, quan hệ giữa những người bán và quan hệ giữa những người mua với nhau. Vì vậy theo nghĩa đen, thị trường là nơi mua bán hàng hoá,là nơi gặp gỡ để tiến hành hoạt động mua bán giữa người bán với người mua. Từ đó sự hình thành của thị trường đòi hỏi phải có : - Đối tượng trao đổi : Sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ. - Đối tượng tham gia trao đổi : Bên bán và bên mua. - Điều kiện thực hiện trao đổi : Khả năng thanh toán. Như vậy ta có thể hiểu khái quát thị trường như sau : ² Thị trường là biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định của người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ cũng như quyết định của các doanh nghiệp về số lượng,chất lượng,mẫu mã của hàng hoá. Đó là những mối quan hệ giữa tổng số cung và tổng số cầu với cơ cấu cung cầu của từng loại hàng hoá cụ thể ² Những tư duy mới về thị trường. Nxb Thống kê năm 1997. . Từ đó nhờ có thị trường mà doanh nghiệp có thể giải quyết được các vấn đề : Phải sản xuất loại hàng hoá gì ? cho ai? Số lượng bao nhiêu ? Mẫu mã kiểu cách chất lượng như thế nào?.... Vì vậy, ta có thể nói rằng đối với một doanh nghiệp thì thị trường là môi trường sống của nó. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào khả năng thích ứng của nó với thị trường. Nếu doanh nghiệp thích ứng nhanh và khai thác thị trường tốt thì doang nghiệp sẽ phát triển nhanh và thế lực của nó trên thị trường càng lớn. Ngược lại, nếu doanh nghiệp chậm thích ứng với thị trường thì doanh nghiệp đó sẽ bị thất bại và dễ dàng bị phá sản. 1.2. Vai trò và chức năng của thị trường. Thị trường có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế các quốc gia. Nhờ có thị trường chúng ta có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực sản xuất thông qua hệ thống giá cả. Trên thị trường, giá cả hàng hoá và các nguồn lực về tư liệu sản xuất, sức lao động,... luôn luôn biến động nhằm đảm báo các nguồn lực có hạn này được sủ dụng để sản xuất đúng những hàng hoá dịch vụ mà xã hội có nhu cầu. Thị trường là khách quan,từng doanh nghiệp không có khả năng làm thay đổi thị trường. Nó (các doanh nghiệp) phải dựa vào việc tìm hiểu thị trường thực chất là tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu và sức mua của người tiêu dùng,đồng thời kết hợp với việc nhận biết các thế mạnh kinh doanh của mình để có phương án kinh doanh phù hợp với đòi hỏi của thị trường. Hay nói chính xác hơn là thông qua thị trường mà ba vấn đề quan trọng nhất của doanh nghiệp là: Sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào ? Sản xuất cho ai? được giải quyết. Sở dĩ thị trường có vai trò to lớn như vậy là do các chức năng sau : Chức năng thừa nhận. Thị trường là nơi gặp gỡ giữa người sản xuất(hàng hoá và dịch vụ)với người tiêu dùng, trong quá trình trao đổi hàng hoá, các đối tượng tham gia vào thị trường đều có mục đích là tối đa hoá lưọi ích của mình. Đối với doanh nghiệp thì mục đích của họ là bán được nhiều hàng hoá với giá cả sao cho bù đắp được mọi chi phí đã bỏ ra và có nhiều lợi nhuận. Còn đối với người tiêu dùng,họ đến thị trường để mua những hàng hoá đúng công dụng hợp thị hiếu và nằm trong khả năng thanh toán theo mong muốn của mình. Trong quá trình diễn ra sự trao đổi,mặc cả trên thị trường giữa đôi bên về một hàng hoá nào đó, sẽ có hai khả năng xảy ra: thừa nhận hoặc không thừa nhận. Nếu thị trường thực hiện chức năng thừa nhận thì việc mua bán hàng hoá được thực hiện,quá trình tái sản xuất được giải quyết,doanh nghiệp có điều kiện phát triển. Ngược lại, nếu hàng hoá không được thừa nhận, việc mua bán không xảy ra thì quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp bị ách tắc, khả năng tồn tại trên thị trường của doanh ngiệp sẽ ít đi. Chức năng thực hiện. Chức năng thực hiện của thị trường thể hiện ở chỗ thị trường là nơi diễn ra các hành vi mua bán, trao đổi. Thông qua chức năng này, các hàng hoá trên thị trường hình thành nên các giá trị trao đổi của mình, làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực. Người ta thường cho rằng việc thực hiện về giá trị là quan trọng nhất,nhưng sự thực hiện về giá trị chỉ xảy ra khi giá trị sử dụng được thực hiện. Chức năng điều tiết, kích thích nền sản xuất xã hội. Thông qua sự hình thành giá cả dưới tác động của quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh trong quan hệ cung cầu hàng hoá mà chức năng điều tiết của thị trường được thực hiện một cách đầy đủ. Ta biết rằng lượng cung và cầu của một loại hàng hóa là do người sản xuất và người tiêu dùng quyết định, quan hệ giữa lượng cung và lượng cầu sẽ không có nếu không tồn tại thị trường. Thông qua thị trường hay nói chính xác hơn là thông qua sự định giá trên thị trường thì số cung và số cầu được giải quyết và quá trình tái sản xuất được thực hiện. Trong quá trình định giá, chức năng điều tiết của thị trường được thể hiện thông qua sự phân bổ lực lượng sản xuất từ ngành này sang ngành khác, từ khu vực này sang khu vực khác đối với người sản xuất đồng thời hướng dẫn người tiêu dùng và xây dựng cơ cấu tiêu dùng đối với người tiêu dùng. Ngoài ra chức năng này của thị trường còn được thể hiện ở chỗ thông qua sự thay đổi liên tục của nhu cầu trên thị trường, các doanh nghiệp phải luôn luôn tìm cách đổi mới về công nghệ, về sản phẩm, về các hình thức phục vụ... do đó làm cho nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển. Chức năng thông tin. Chức năng thông tin của thị trường có thể được hiểu là việc thị trường chỉ ra cho người sản xuất biết nên sản xuất hàng hóa nào, khối lượng bao nhiêu, nên tung ra thị trường ở thời điểm nào; nó chỉ ra cho người tiêu dùng biết nên mua một hàng hoá hay mua một mặt hàng thay thế nào đó hợp với thu nhập của họ Chức năng này hình thành là do trên thị trường có chứa đựng các thông tin về tổng số cung, tổng số cầu của từng loại hàng hoá, chi phí sản xuất, giá cả thị trường, chất lượng sản phẩm.... Đấy là những thông tin cần thiết để người sản xuất và người tiêu dùng đưa ra các quyết định phù hợp với lợi ích của mình. Trong công tác quản lý nền kinh tế thị trường nói chung và trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng, vai trò tiếp nhận thông tin về thị trường đã là quan trọng, song việc chọn lọc thông tin và xử lý thông tin lại là công việc quan trọng hơn nhiều. Việc đưa ra được những quyết định đúng đắn, chính xác có thể thúc đẩy sự vận hành mọi hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường và quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào sự chính xác của việc sàng lọc và xử lý thông tin. 2. Các quy luật của thị trường và cơ chế thị trường. 2.1. Các quy luật của thị trường. Trên thị trường có nhiều quy luật kinh tế hoạt động đan xen nhau, và có quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó quy luật giá trị quy định hàng hoá phải được sản xuất và trao đổi trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là chi phí bình quân trong xã hội. Quy luật giá trị sẽ được biểu hiện thông qua giá cả thị trường. Tuy nhiên quy luật giá trị muốn biểu hiện yêu cầu của mình bằng giá cả thị trường lại phải thông qua sự vận động của quy luật cung cầu. Quy luật nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn luôn có xu thế chuyển động xích lại gần nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường. Nhưng quy luật cung cầu lại biểu hiện yêu cầu của mình thông qua sự vận động của quy luật giá trị là giá cả. Ngoài ra trên thị trường còn có một số các quy luật khác như : - Quy luật cạnh tranh: quy định hàng hoá sản xuất ra phải ngày càng có chi phí thấp hơn, chất lượng ngày càng tốt hơn để thu lợi nhuận cao và có khả năng cạnh tranh với các hàng hóa khác cùng loại. - Quy luật giá trị thặng dư: Yêu cầu hàng hoá bán ra phải bù đắp chi phí sản xuất và lưu thông đồng thời phải có một khoản lợi nhuận để tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất mở rộng. 2.2. Cơ chế thị trường Khi xuất hiện sản xuất và trao đổi hàng hoá thì phải có thị trường. Nền kinh tế mà trong đó có sản xuất và trao đổi hàng hoá diễn ra một cách tự nhiên gọi là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường,mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hoá giữa người sản xuất và người tiêu dùng được vận hành theo một cơ chế do sự điều tiết của quan hệ cung cầu quy định. Cơ chế ấy được gọi là cơ chế thị trường. Thực chất cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các quy luật kinh tế tác động lên mọi hoạt động của nhà sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình trao đổi. Do sự điều tiết của quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh, các bên tham gia thị trường buộc phải gặp nhau, từ đó hình thành hệ thống giá cả mà cả hai bên đều có thể chấp nhận được. Hệ thống giá cả hoạt động trong cơ chế thị trường chính là người làm trung gian hoà giải mối quan hệ giữa nhà kinh doanh và người tiêu dùng, nó hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của cả hai bên. Như vậy, sự điều tiết các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường dưới tác động của quy luật kinh tế thị trường đã mang lại những đóng góp tích cực, do đó góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng sự điều tiết tự động của thị trường diễn ra khi mọi hiện tượng kinh tế đã được bộc lộ, nên chính cơ chế thị trường đã dẫn đến những hậu quả lãng phí cho xã hội. Để khắc phục những nhược điểm của nó, chúng ta một mặt phải triệt để lợi dụng các mặt tích cực được tạo ra từ cơ chế thị trường, mặt khác phải sử dụng các đòn bẩy kinh tế và những định chế pháp luật trong tay nhà nước để can thiệp vào thị trườn, nhằm đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng, cho các doanh nghiệp, thúc đẩy kinh tế phát triển. 3. Phân loại thị trường và phân khúc thị trường. 3.1. Phân loại thị trường. Người xưa có câu “ Đáo giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục” để khuyên dạy con cháu cách đôi nhân xử thế giữa thiên biên vạn hoá của cuộc đời. Và trong kinh doanh cũng vậy, muốn thành công, doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đầy đủ và thật chính xác thị trường. Để làm được điều này, một cách nhanh nhất đỡ tốn chi phí nhất cách tốt nhất là chúng ta phải tiến hành phân loại thị trường. Có nhiều cách thức để phân loại thị trường như: - Căn cứ vào mức độ xã hội hoá của thị trường. Dựa theo căn cứ này, người ta chia thị trường ra thành thị trường địa phương, thị trường toàn quốc, thị trường quốc tế. Tại từng thị trường mức sống khác nhau của người tiêu dùng và điều kiện kinh doanh khác nhau của các nhà doanh nghiệp khiến cho cung cầu và giá cả đối với một mật hàng cụ thể cũng khác nhau. Do đó với các doanh nghiệp tham gia thị trường quốc tế, việc nghiên cứu kỹ luật pháp và thông lệ quốc tế trong buôn bán cũng như các yếu tố khác trong thị trường quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên do quá trình quốc tế hoá hiện nay, thị trường thế giới ngày càng có nhiều ảnh hưởng tới thị trường trong nước, vì vậy bất kỳ một doanh nghiệp nào dù chỉ kinh daonh trong nước cũng phải quan tâm đến thị trường quốc tế. - Căn cứ vào mặt hàng mua bán: Có thể chia thị trường thành nhiều loại khác nhau: + Thị trường kim loại. + Thị trường nông sản, thực phẩm. + Thị trường tiền tệ Quá trình phân chia này dựa vào việc tính chất và giá trị sử dụng của từng mặt hàng, nhóm hàng khác nhau, dẫn tới các thị trường sẽ chịu tác động của các nhân tố ảnh hưởng với mức độ khác nhau. Sự khác nhau này đôi khi chi phối cả phương thức mua bán, vận chuyển, thanh toán. Căn cứ vào phương thức hình thành giá cả thị trường. Thị trường được phân chia thành thị trường độc quyền và thị trường cạnh tranh. Trên thị trường độc quyền, giá cả và các quan hệ kinh tế khác do nhà độc quyền áp đặt; còn trên thị trường cạnh tranh thì giá cả và các quan hệ kinh tế được hình thành thông qua sự cạnh tranh. Căn cứ theo khả năng tiêu thụ hàng hoá: Người ta chia ra thị trường thực tế và thị trường tiềm năng, thị trường hiện tại và thị trường tương lai. 3.2. Phân khúc thị trường. Khi quyết định tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh, nhà sản xuất (hàng hoá và dịch vụ) phải xác định được thị trường cụ thể tức là xác định nhu cầu của khách hàng mà mình có khả năng cung ứng. Thực tế cho thấy trong một thị trường nhu cầu có thể là đồng nhất, song khách hàng có thể không đồng nhất. Sự khác nhau về yêu cầu của khách hàng về một loại hàng hoá đó là lẽ đương nhiên, bởi vì khách hàng là tập hợp người có tuổi tác, giới tính, thu nhập, tập quán, thói quen... khác nhau. Sự không đồng nhất này đã ảnh hưởng đến sức mua và khả năng tiên thụ hàng hoá trên thị trường. Vì lý do đó, để tiếp cận và khai thác thị trường nhằm đạt được mục tiêu chiến lược kinh doanh của mình, các doanh nghiệp pjhải biết cách tiến hành phân khúc nhu cầu theo yêu cầu của từng nhóm khách hàng cụ thể trên cùng một thị trường đó gọi là phân khúc thị trường. Phân khúc thị trường là sự phân chia thị trường thành những bộ phận gọi là thị trường phụ dựa vào sự phân loại nhu cầu của từng nhóm khách hàng cụ thể. Phương pháp phân khúc thị trường rất phong phú, tuỳ loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau mà phương pháp phân khúc sẽ khác nhau. Sau đây là một số phương pháp phân khúc thị trường: - Phân khúc thị trường theo khu vực, theo đơn vị hành chính. - Phân khúc thị trường theo kinh tế xã hội và nhân khẩu học. - Phân khúc thị trường theo đặc điểm tâm sinh lý. - Phân khúc thị trường theo lợi ích. II. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Khái niệm về môi trường kinh doanh. 1.1 Khái niệm về môi trường kinh doanh. Bất kỳ một tổ chức nào, đặc biệt là tổ chức hoạt động kinh doanh, trong quá trình hoạt động đều gắn liền với các yếu tố tác động nhất định. Tất cả các yếu tố (bao gồm các yếu tố bên ngoài và bên trong) vận động và tương tác lẫn nhau tác động trực tiếp, gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp (sự tác động này có thể gây thuận lợi và khó khăn cho doanh nghiệp), tạo nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố đó luôn thay đổi do đó môi trường kinh doanh của doanh nghiệp cũng luôn thay đổi và doanh nghiệp phải tự tìm cách thích ứng với nó. Môi trường kinh doanh có thể được coi như là môi trường sống của doanh nghiệp. Quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp có thể được mô tả đơn giản như sau: “ Các doanh nghiệp sử dụng - thu hút các nguồn lực từ bên ngoài với tư cách là yếu tố đầu vào, đưa các yếu tố đó vào quá trình sản xuất biến đổi - chế biến sau đó đưa ra môi trường các sản phẩm hay dịch vụ cần thiết - các yếu tố đầu ra”. GS.TS Ngô Đình Giao - chủ biên. Môi trường kinh doanh trong các doanh nghiệp công nghiệp thực phẩm Nxb Giáo dục năm 1997. Tr 7,8. Do đó, việc nghiên cứu môi trường kinh doanh là một công việc bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn thành công trong quá trình kinh doanh của mình thì phải hiểu chính xác những yếu tố liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này đến doanh nghiệp mình hay nói chính xác hơn là phải hiểu rõ môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp đang ở trong đó. 1.2. Các nhân tố trong môi trường kinh doanh. Hiện tại trên thế giới đang tồn tại rất nhiều các quan điểm trong vấn đề nghiên cứu môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới đây em sẽ trình bày một trong những quan điểm đó : Quan điểm nghiên cứu môi trường kinh doanh của các nước Mỹ và Nhật (hai nước hiện đang có nền kinh tế mạnh nhất thế giới). Theo quan điểm này môi trường kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành : - Môi trường kinh doanh quốc tế - Môi trường kinh tế quốc dân trong nước - Môi trường cạnh tranh nội bộ ngành. Và trong mỗi một môi trường kinh doanh lại bao gồm vô số các nhân tố khác nhau, có ảnh hưởng khác nhau đến quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. - Thứ nhất, trong môi trường kinh doanh quốc tế bao gồm các nhân tố chính như: + Những ảnh hưởng của nền chính trị thế giới. + Các quy định pháp quy, luật pháp của các quốc gia, luật pháp và các thông lệ quốc tế... + ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế quốc tế + ảnh hưởng của các yếu tố kỹ thuật công nghệ + Các yếu tố văn hoá xã hội của các nước - Thứ hai, môi trường kinh tế quốc dân trong nước bao gồm các nhân tố: + Các nhân tố kinh tế + Các nhân tố chính trị pháp luật + Các nhân tố về kỹ thuật công nghệ + Các nhân tố về mặt văn hoá xã hội + Các nhân tố về tự nhiên - Thứ ba, môi trường cạnh tranh nội bộ ngành thì bao gồm: + Khách hàng + Số lượng các doanh nghiệp trong ngành và tiềm ẩn + Số lượng và sức ép của các nhà cung cấp + Sức ép của các sản phẩm thay thế + Sự phát triển của hoạt động môi giới, hoạt động tư vấn kinh doanh. 2. Phân tích các nhân tố trong môi trường kinh doanh. Trên thực tế một doanh nghiệp có thể tham gia hoặc không tham gia trên thị trường quốc tế song với xu hướng quốc tế hoá toàn cầu như hiện nay thì các doanh nghiệp đều phải nghiên cứu và phân tích ảnh hưởng của các nhân tố trong môi trường thế giới đến hoạt động kinh doanh của mình. Tuy vậy, do trình độ có hạn và trong điều kiện là một bài luận văn tốt nghiệp, em chỉ xin phân tích kỹ hai môi trường kinh doanh sau: 2.1 Môi trường kinh tế quốc dân trong nước bao gồm các yếu tố. Các nhân tố kinh tế. Các nhân tố về kinh tế có vai trò quan trọng và quyết định nhất đối với quá trình k
Tài liệu liên quan