Phát triển Thương mại quốc tế (TMQT) đã trở thành một xu thế mang tính tất yếu khách quan của lịch sử và ngày nay nó được xem như là điều kiện làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế của toàn thế giới nói chung và mỗi quốc gia nói riêng. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá có ý nghĩa và vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân khi tham gia TMQT. Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho TMQT phát triển, đảm bảo sự lưu thông hàng hoá với nước ngoài,
107 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu
Phát triển Thương mại quốc tế (TMQT) đã trở thành một xu thế mang tính tất yếu khách quan của lịch sử và ngày nay nó được xem như là điều kiện làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế của toàn thế giới nói chung và mỗi quốc gia nói riêng. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá có ý nghĩa và vai trò vô cùng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân khi tham gia TMQT. Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho TMQT phát triển, đảm bảo sự lưu thông hàng hoá với nước ngoài, khai thác được tiềm năng và thế mạnh của nước ta trên cơ sở phân công lao động sâu sắc hơn và chuyên môn hoá quốc tế ngày càng cao hơn. Chính TMQT đã tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia, giúp nền kinh tế Việt Nam hoà nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Nhìn lại những năm cuối cùng của thế kỷ 20 ta thấy Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật, trong đó không thể không kể đến sự phát triển vượt bậc của hoạt động xuất khẩu. Có được những kết quả này là nhờ có sự đổi mới về chính sách, về chế độ quản lý, đa dạng hoá đa phương hóa hoạt động ngoại thương.
Hiện nay ở Việt Nam có trên 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đây là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (80%). Mỗi mặt hàng có đặc tính, điều kiện sản xuất khác nhau. Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam là sản phẩm của những ngành nghề thủ công truyền thống, mang nét văn hoá dân tộc, văn hoá phương Đông, những dấu ấn lịch sử nhất định, nên không chỉ là những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cuộc sống hàng ngày mà còn là những văn hoá phẩm phục vụ đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thưởng thức những tinh hoa văn hoá của các dân tộc. Vì vậy, hàng thủ công mỹ nghệ vừa có nhu cầu ngày càng tăng ở trong nước, vừa có nhu cầu ngày càng cao trên thị trường nước ngoài theo sự phát triển giao lưu văn hoá giữa các nước, giữa các dân tộc trên thế giới.
Để nối nghiệp Cha ông để lại, các thế hệ đã không ngừng phát huy học hỏi để phát triển và truyền lại cho đời sau vốn quý nghề nghiệp này của dân tộc. Quan tâm và có chính sách thoả đáng đẩy mạnh xuất khẩu, làm sống động các ngành nghề truyền thống là thiết thực bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của dân tộc ta. Phát triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ được xem như một bước đi đúng đắn mà Chính phủ Việt Nam đã lựa chọn. Một mặt, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường Thế giới được dự báo liên tục tăng trong các năm tới. Nhưng mặt khác phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu mặt hàng này sẽ tận dụng được các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, giải quyết đáng kể vấn đề việc làm cho người lao động.
Những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan về sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, chất lượng, mẫu mã, chủng loại hàng hoá đa dạng hơn. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của ta cũng đang còn đứng trước những khó khăn, thách thức. Chúng ta cần có những chính sách, biện pháp phù hợp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của ta đạt kết quả cao hơn nữa, tận dụng tốt lợi thế so sánh của đất nước.
Để thực hiện mục tiêu đào tạo của Nhà trường, sau quá trình học tập ở Nhà trường và thực tập cuối khoá tại Vụ Kế hoạch- Thống kê. Bộ Thương mại và khảo sát thực tế tại Công ty XNK Intimex, được sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo và sự giúp đỡ chú Trần Chiến- Trưởng phòng NV XNK 1 Công ty XNK Intimex cùng với các cô, bác. anh, chị ở Vụ Kế hoạch Thống kê và công ty XNK Intimex, tôi đã chọn đề tài: "Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam (Lấy ví dụ ở Công ty XNK Intimex" làm tên cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Trong luận văn này tôi đã trình bày một số lý luận cơ bản về xuất khẩu và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, từ đó đưa ra những chính sách, biện pháp cụ thể. Mặc dù hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ trọng còn nhỏ ở Công ty Intimex nhưng tôi muốn thông qua thực tiễn kinh doanh ở Công ty, kết hợp đề xuất một số biện pháp phù hợp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở đây nói riêng và các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung. Hy vọng hoạt động kinh doanh của Công ty, trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ sẽ ngày càng lớn mạnh, luôn đạt được những thành tích cao hơn nữa.
Kết cấu Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Vai trò, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam và tình hình xuất khẩu mặt hàng này ở Công ty xuất nhập khẩu Intimex.
Chương 3: Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức, thời gian và kinh nghiệm nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các Thầy Cô giáo cùng các bạn để luận văn của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
Chương 1
Vai trò, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng
I. Vai trò, nội dung của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
1. Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế (TMQT) là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các ngành kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được. TMQT đã trở thành vấn đề sống còn, vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng của dân cư một quốc gia. Ngày nay, khi quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra hết sức sâu sắc thì TMQT đã trở thành một quy luật tất yếu khách quan và được xem như là một điều kiện tiền đề cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Sự ra đời phát triển của TMQT gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Xã hội càng phát triển, phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc, điều đó phản ánh mối quan hệ phụ thuộc kinh tế giữa các quốc gia ngày càng tăng lên. TMQT cũng vì thế mà ngày càng mở rộng và phức tạp.
TMQT xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia, chính sự khác nhau đó nên có lợi cho mỗi nước chuyên môn hoá (CMH) sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của mình, để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết khác từ nước ngoài. Điều quan trọng là mỗi nước phải xác định cho được những Mặt hàng nào mà nước mình có lợi nhất trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Quy luật lợi thế tương đối hay lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người anh David Ricardo (1817) nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết khẳng định nếu mỗi nước CMH vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối (hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm chí nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia TMQT để tạo ra lợi ích cho mình khi tham gia vào TMQT, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản suất tất cả các loại hàng hoá, sẽ CMH sản xuất và xuất khẩu các loại hàng mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất.
TMQT còn bắt nguồn do sự chênh lệch giữa các nước chi phí cơ hội của hàng hoá tạo ra. Chi phí cơ hội của một hàng hoá là số lượng các mặt hàng mà người ta phải từ bỏ để làm ra các mặt hàng khác nhau. Sự chênh lệch giữa các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định phương thức TMQT. Còn nhiều lý do khác khiến TMQT rất quan trọng thế giới hiện đại. Một trong những lý do đó có thể là TMQT tối cần thiết cho việc thực hiện CMH sâu, để có hiệu quả kinh tế cao trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. CMH theo quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện ở từng nước trong các nước khác nhau. Heckscher-Ohlin nhà kinh tế Thuỵ Điển đã phát hiện quy luật lợi thế trên dựa vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đó là việc tính toán các yếu tố đầu vào để xác định sản phẩm đầu ra có giá thành hạ nhất. Có những nước có ưu thế về nguồn lực lao động, đất đai, tài nguyên rẻ thì giá thành sản phẩn rẻ nếu đất nước này chọn những sản phẩm CMH sử dụng nhiều lao động, đất đai, tài nguyên và từ đó họ kinh doanh sẽ có hiệu quả. Sụ khác nhau về sở thích và mức cầu cũng là một nguyên nhân khác để có buôn bán. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối trong hai nơi giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về sở thích. Một tác động khác là sự độc quyền về bản quyền, bằng phát minh sáng chế, tri thức chuyên môn của một số người. Công ty có quyền sở hữu về một phát minh sáng chế, có thể từ chối cấp giấy phếp hoặc gia công sản xuất đối với các công ty ở nước khác, hoặc chỉ cho phép với điều kiện là các sản phẩm ấy không được xuất khẩu. Điều này tạo cho nước sở hữu phát minh có một có một sự độc quyền thực sự về loại sản phẩn này trên thị trường thế giới.
Những lợi ích mà TMQT đem lại đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân (KTQD), là nguồn tiết kiệm nước ngoài, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ. TMQT vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Chính vì vậy nó được coi là " bộ phận của đời sống hàng ngày " .
Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những hướng đi mới trong đường lối chính sách của mình. Từ tư tưởng tự cung tự cấp đến nay chúng ta tạo mọi điều kiện để mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài, mở rộng để thu hút mọi nguồn vốn đầu tư. Với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ KTQD, mở cửa và hướng mạnh ra xuất khẩu để làm cho nền kinh tế nước ta sống dậy, hoạt động ngoại thương trong những năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu. kim ngạch xuất khẩu 10 năm trở lại đây đã liên tục tăng cả về số lượng lẫn chất lượng, với tốc độ tăng hàng năm là trên dưới 20% đóng góp một phần không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy, trong Nghị Quyết đại hội VIII của Đảng đã nhấn mạnh "Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở , hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả".
2. Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong hoạt động ngoại thương ở Việt Nam
2.1. Khái niệm, nội dung xuất khẩu
2.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức từ trong nước ra ngoài nước nhằm mục đích thu lợi nhuận tối đa, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Vì thế hoạt động xuất khẩu hàng hoá một mặt dễ đem lại những hiệu quả kinh tế rất cao, mặt khác nó cũng gây ra những hậu quả không lường trước được vì phải đối đầu không chỉ với một hệ thống kinh tế khác ở bên ngoài mà là toàn bộ các hệ thống kinh tế của các nước cùng tham gia xuất khẩu không giống nhau và rất khó có thể khống chế được.
Xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trong nước và nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống nhân dân. So với việc mua bán sản phẩm trong thị trường nội điạ, hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều. Đây là hoạt động giao dịch, buôn bán với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường vô cùng rộng lớn khó kiểm soát, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá được vận chuyển qua biên giới quốc gia. Các quốc gia khác nhau tham gia vào hoạt động giao dịch, buôn bán này phải tuân thủ theo những tập quán thông lệ quốc tế, cũng như của các địa phương.
2.1.2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
Như chúng ta đã đề cập, xuất khẩu là việc bán sản phẩm trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, phát triển và nâng cao đời sống trong nước. Đây là hoạt động phức tạp hơn việc bán sản phẩm trên thị trường nội địa rất nhiều. Đồng thời chịu tác động bởi nhiều nhân tố khác nhau. Chính vì thế nó được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, thương nhân giao dịch tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá đến cảng, chuyển giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành các thủ tục thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ đều phải được nghiên cứu kỹ lưỡng đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được những lợi thế nhằm đảm bảo được hoạt động xuất khấu đạt hiệu quả cao nhất.
Để kinh doanh xuất khẩu hiệu quả, hoạt động thực hiện phải bao gồm các nghiệp vụ sau:
a- Nghiên cứu thị trường quốc tế.
Đây là công việc đầu tiên được tiến hành một cách chu đáo, cẩn thận. Nghiên cứu các thị trường tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hoá đó trên thị trường, giúp cho họ giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như: Yêu cầu thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Công việc này bao gồm:
* Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới.
Phải bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình sản xuất của một ngành sản xuất cụ thể, tức là việc nghiên cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà còn ở lĩnh vực sản xuất, phân phối hàng hoá.
Muốn vậy ta phải xác định các vấn đề sau:
- Thị trường đang cần mặt hàng gì?
- Tình hình tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào?
- Mặt hàng ở thời kỳ nào của chu kỳ sống?
- Tình hình sản xuất mặt hàng đó ra sao?
- Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó?
* Dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng tới nó.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định ( Thế giới, khu vực) trong một thời gian nhất định ( thường là một năm ). Khi nghiên cứu thị trường hàng hoá khác nhau phải căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng ảnh hưởng của các nhân tố, xác định nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định tới xu hướng vận động của thị trường trong giai đoạn hiện tại và tương lai.
* Lựa chọn đối tác buôn bán.
Mục đích của hoạt động này là lựa chọn bạn hàng có thể cộng tác được, đảm bảo an toàn và có lãi. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn đối tác bao gồm:
- Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó.
- Lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ, nhằm thấy được những ưu thế bên thoả thuận giá cả, điều kiện thanh toán.
- Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
- Những người chịu trách nhịêm thay mặt để kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với nghĩa vụ của công ty.
* Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới: Được coi là vấn đề chiến lược ưu tiên hàng đầu bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức tiêu thụ và lơị nhuận của nhà xuất khẩu. Định giá đúng đảm bảo cho các nhà xuất khẩu thắng lợi trong kinh doanh, tránh rủi ro và thua lỗ. Thông thường các nhà kinh doanh xuất khẩu định giá bán sản phẩm dựa trên 3 căn cứ:
- Giá thành và các chi phí khác.
- Sức mua của người tiêu dùng và nhu cầu của họ.
- Giá cả hàng hoá cạnh tranh.
* Thanh toán trong TMQT: Là một khâu rất quan trọng, đảm bảo hiệu quả kinh tế trong kinh doanh xuất khẩu. Việc thanh toán phải xét đến các vấn đề:
- Tiền tệ trong thanh toán quốc tế.
- Thời hạn thanh toán.
- Các hình thức và phương thức thanh toán quốc tế.
- Các điều kiện đảm bảo hối đoái.
b- Lập phương án kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc kinh doanh phương án này bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường .
- Lựa chọn mặt hàng.
- Đề ra mục tiêu cụ thể.
- Đề ra biện pháp và thực hiện những biện pháp này.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh.
c- Nguồn hàng cho xuất khẩu.
Đó là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu được.
Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp cho sản xuất, có thể là thu gom hoặc ký kết hợp đồng mua với các chủ hàng, các đơn vị sản xuất. Nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp.
d- Đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế.
* Các hình thức đàm phán:
Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường có các hình thức sau:
- Đàm phán qua thư tín.
- Đàm phán qua điện thoại.
- Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp.
* Các bước tiến hành đàm phán:
Bước 1: Chào hàng( phát giá ).
Đây là việc nhà kinh doanh thế hiện có ý định bán hàng của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng. Nếu việc mua bán xuất phát từ phiá người mua ( người nhập khẩu) thì có thể hỏi giá hoặc đặt hàng.
Bước 2 : Hoàn giá.
Khi người mua chấp nhận được đơn chào hàng nhưng không chấp nhận hoàn toàn đơn chào hàng đó mà đưa ra một đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn giá. Thường thì giao dịch không kết thúc ngay từ lần chào hàng đầu tiên mà phải trải qua nhiều lần hoàn giá.
Bước 3 : Chấp nhận..
Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng (đặt hàng) mà giá bên kia đưa ra, khi đó thì tiến hành làm hợp đồng.
Bươc 4: Xác nhận
Hai bên sau khi thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều kiện đã thoả thuận gửi cho bên kia đó là văn bản xác nhận và có chữ ký của cả hai bên.
e- Hợp đồng kinh tế xuất khẩu hàng hoá
Đối với các quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì phải thực hiện lập và ký kết hợp đồng. Trong đó quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia ký kết phải được thể hiện đầy đủ trong hợp đồng. Hợp đồng thể hiện bằng văn bản và hình thức bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của các đương sự có quốc tịch khác nhau, trong đó bên gọi là bên bán( nước xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên kia gọi là bên mua ( nước xuất khẩu ) một lượng hàng hoá nhất định. Bên nhập khẩu có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng.
* Thực hiện hợp đồng xuất khẩu :
Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết thì đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải được thực hiện hợp đồng đã ký, tiến hành sắp xếp những phần việc đã làm ghi thành bảng biểu theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời ghi lại những diễn biến, những văn bản phát đi và nhận được để xử lý và giải quyết cụ thể, đồng thời phải đảm bảo được quyền lợi quốc gia và hiệu quả kinh doanh của đơn vị.
2.2. Vai trò của xuất khẩu trong nền Kinh tế quốc dân
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thể nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
Xuất khẩu hàng hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu trong ngân s