Lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Đặc biệt ở Việt Nam, xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội bởi vì thông qua việc mở rộng xuất khẩu cho phép nước ta tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu xã hội, cũng như tạo cơ sở cho sự phát triển các cơ sở hạ tầng.
104 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty SIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Đặc biệt ở Việt Nam, xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội bởi vì thông qua việc mở rộng xuất khẩu cho phép nước ta tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu xã hội, cũng như tạo cơ sở cho sự phát triển các cơ sở hạ tầng. Vai trò này đã được Đảng ta nhận thức rất sớm và nhấn mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1990. Đại hội đã khẳng định: "xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong 5 năm 1990-1994, không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo". Hơn thế nữa, xuất khẩu được coi là yếu tố có ý nghĩa "quyết định" để thực hiện chương trình về lương thực, thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng và các hoạt động kinh tế khác(1) Văn kiện Đại hội Đảng CSVN . NXB Sự thật Hà Nội năm 2001, trang 153
.
Trên quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại. Sự phát triển đa dạng hoá và đa phương hoá hoạt động ngoại thương đã mang lại những thành tựu nổi bật cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây. Từ một đất nước ngoại thương chỉ nghiêng về nhập khẩu gần như đồng nghĩa với tiếp nhận hàng viện trợ, Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên tạo chỗ đứng cho mình trên thị trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều đặn hàng năm ở mức thấp trên dưới 20% và xấp xỉ gần 2,5% làm tốc độ tăng GDP, đạt 8,7 tỷ USD vào năm 2001, dần tiến tới cân bằng xuất nhập.
Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu; cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuối khoá tại Công ty xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, tôi mạnh bạo chọn đề tài "Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty SIMEX" làm đề tài nghiên cứu. Đề tài này nhằm mục đích trình bày những vấn đề về ý nghĩa của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và doanh nghiệp nói riêng của Công ty SIMEX., thực trạng của hoạt động xuất khẩu ở công ty SIMEX và từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty SIMEX.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, lại do những hạn chế về trình độ cũng như thời gian nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Đề tài này được hoàn thành dưới sự giúp đỡ của Ban giám đốc Công ty và với sự hướng dẫn của thầy giáo PGS. PTS Đặng Đình Đào.
Xin chân thành cảm ơn!
Chương I
Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá
trong nền kinh tế thị trường.
I/ Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
1. Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế.
Ngày nay, khi quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra hết sức sâu sắc thì thương mại quốc tế đã trở thành một qui luật tất yếu khách quan và được xem như là một điều kiện, tiền đề cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu tự cô lập mình không quan hệ kinh tế với thế giới. Thương mại quốc tế đã trở thành vấn đề sống còn vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng của dân cư một quốc gia.
Thương mại quốc tế là hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia với nhau. Hoạt động đó là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt giữa các quốc gia.
Thương mại quốc tế ra đời từ khi có Nhà nước ra đời, tức là nó xuất hiện từ chế độ chiếm hữu nô lệ. Đến hình thái xã hội phong kiến và đặc biệt là tư bản chủ nghĩa thì quan hệ hàng hoá phát triển mạnh, phức tạp làm cho hoạt động thương mại quốc tế có bước phát triển đột biến.
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người ta thấy có 3 giai đoạn phân công lao động xã hội lớn:
Giai đoạn 1: nghề chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Những người chăn nuôi đem thịt sữa đổi lấy lương thực của người trồng trọt. Hình thức đầu tiên của thương mại xuất hiện.
Giai đoạn 2: nghề thủ công tách khỏi nghề nông. Đây là giai đoạn xuất hiện nhà nước phong kiến. Sản xuất chuyên môn hoá phát triển cao hơn, những người làm thủ công đem sản phẩm của mình đổi lấy thức ăn. Cũng trong giai đoạn này xuất hiện tiền tệ, tiền tệ được dùng làm vật ngang giá chung cho mọi hàng hoá thúc đẩy lưu thông phát triển cao hơn.
Giai đoạn 3: Xuất hiện những người chuyên buôn bán hàng hoá gọi là thương nhân. Sự xuất hiện của thương nhân đã góp phần thúc đẩy quá trình phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn, thương mại quốc tế vì vậy có bước phát triển về chất.
Như vậy, sự ra đời và phát triển của thương mại quốc tế gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Xã hội càng phát triển, phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc. Điều đó phản ánh mối quan hệ phụ thuộc kinh tế giữa các quốc gia ngày càng tăng lên. Thương mại quốc tế cũng vì thế mà ngày càng mở rộng và phức tạp.
Thương mại quốc tế xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia. Chính sự khác nhau đó nên đều có lợi là mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết khác. Điều quan trọng là mỗi nước phải xác định cho được những mặt hàng nào mà nước mình có lợi nhất trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Sự gia tăng của hoạt động thương mại quốc tế xét về kim ngạch cũng như chủng loại hàng hoá đã làm cho vấn đề lợi ích của mỗi quốc gia được xem xét một cách đặc biệt chú trọng hơn. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra: Tại sao Mỹ lại nhập cà phê và xuất lương thực? Tại sao Nhật bản lại xuất hàng công nghiệp và chỉ nhập nguyên liệu thôi? Tại sao một nền kinh tế kém phát triển như Việt Nam lại có thể hy vọng đẩy mạnh xuất khẩu? Lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo (1917) đã giải thích một cách căn bản và có hệ thống những câu hỏi này.
Theo qui luật lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích của mình.
Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào thương mại quốc tế thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ. Khi tham gia vào thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất (đó là các hàng hoá không có lợi thế tương đối).
Mô hình của D.Ricardo có thể được minh hoạ bằng ví dụ sau:
Lợi thế so sánh
Việt Nam
Đài Loan
Thép (kg/1 giờ công)
1
6
Vải (m/1 giờ công)
2
4
Ta thấy rằng: Đài Loan có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam về cả hai loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở ngành thép của Đài Loan gấp 6 lần của Việt Nam thì năng suất lao động ở ngành dệt của Đài Loan chỉ gấp 2 lần. Như vậy giữa thép và vải thì Việt Nam có lợi thế tương đối về sản xuất vải, còn Đài Loan có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá so với Việt Nam, nhưng chỉ lợi thế tương đối trong sản xuất thép.
Theo qui luật lợi thế tương đối thì cả hai quốc gia đều sẽ có lợi thế nếu Đài Loan chuyên môn hoá sản xuất thép còn Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải. Sau đó, hai nước tiến hành trao đổi một phần thép lấy một phần vải cho nhau.
Lý thuyết lợi thế tương đối (hay so sánh) của David Ricardo đã phần nào giải thích được cơ chế lợi ích khi thương mại quốc tế diễn ra giữa các quốc gia có điều kiện sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng, thương mại quốc tế vẫn diễn ra giữa các quốc gia khi giữa chúng có các điều kiện sản xuất khá giống nhau. Chẳng hạn, sự trao đổi buôn bán ô tô là khá phát triển giữa Mỹ và Nhật Bản; điều tương tự cũng xảy ra đối với mặt hàng điện tử giữa các nước Tây Âu. Rõ ràng là, không có thế lực nào bắt buộc hai nước phải buôn bán với nhau nếu một nước không có lợi. Các quốc gia hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn mặt hàng cũng như đối tác buôn bán có khả năng dem lại lợi ich cao cho họ.
Vậy thương mại quốc tế bắt nguồn từ đâu:
Một là, các nước khác nhau thường có các điều kiện sản xuất rất khác nhau, tức là sự khác nhau về khả năng chiếm dụng nguồn lực. Dựa trên cơ sở đó, mỗi nước sẽ tận dụng lợi thế của mình để sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng của mình giàu tiềm năng nhất, đồng thời nhập khẩu những sản phẩm có sử dụng nguyên liệu mà nước mình bất lợi nhất. Người ta chia nguồn lực ra làm 3 loại:
Nguồn lực tự nhiên gồm: đất đai, thời tiết, khí hậu, địa lý. Nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới thương mại quốc tế là rất rõ. Các nước có đất đai và khí hậu thích hợp cho việc trồng cà phê sẽ có xu hướng xuất khẩu nhiều cà phê, trong khi các nước có nguồn dự trữ lớn về dầu mỏ có xu hướng xuất khẩu nhiều dầu mỏ.
Nguồn nhân lực, đó là lực lượng con người của một quốc gia. Con người là lực lượng quan trọng nhất của một quốc gia. Bởi vì, sự di chuyển lao động giữa các quốc gia không chỉ đơn thuần mang tính kinh tế mà nó còn liên quan đến nhiều vấn đề xã hội khác, do vậy, phạm vi để một nước mua được nhiều lao động có kỹ năng cao của các nước là mang tính hạn chế. Ngoài ra, đối với các sản phẩm chế tạo và dịch vụ mang tính trí tuệ cao thì lao động là đầu vào chính đối với sản xuất. Lực lượng lao động của một nước càng có kỹ năng cao, thì nước đó càng có nhiều khả năng để trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm chế tạo, và đặc biệt là các sản phẩm có được giá cả phải chăng trên thị trường thế giới. Chúng ta đã chứng kiến những thập kỷ qua, nhờ dựa vào lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ mà các nước Đông Nam á đã thực hiện thành công chiến lược hướng ra xuất khẩu các sản phẩm có sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là hàng điện.
Hạ tầng cơ sở, hạ tầng cơ sở của một nước như giao thông với truyền thông, hệ thống cung cấp điện năng và các phương tiện công cộng đóng một vai trò quan trọng về việc có thể thúc đẩy họăc kìm hãm sự phát triển thương mại của nước đó đối với thế giới.Chẳng hạn đường sá, bến cảng không thích hợp có thể làm tăng chi phí lưu thông hàng hoá. Mặt khác, hạ tầng cơ sở tốt là một nguồn lực phục vụ cho các hoạt động xuất khẩu.
Hai là, hiệu quả kinh tế theo quy mô. Hiệu quả kinh tế theo quy mô hay lợi suất tăng dần theo quy mô có nghĩa là hầu hết các hàng hoá được sản xuất ra đắt hơn khi sản xuất với khối lượng nhỏ, và trở nên rẻ hơn khi quy mô sản xuất tăng lên. Nguyên nhân là, với nền sản xuất quy mô lớn, người ta có thể tiết kiệm được trong việc sử dụng máy móc và thiết bị chuyên môn hoá. Hơn nữa, do phân công công việc ra giữa nhiều người khác nhau, mỗi người có thể trở thành chuyên gia theo một khía cạnh của quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm và sự đào tạo chuyên môn. Hiệu quả kinh tế theo quy mô rất quan trọng cho nền thương mại quốc tế của các nước nhỏ. Phạm vi các hàng hoá, mà theo đó có thể có được quy mô hiệu quả trong sản xuất, bị giới hạn nhiều hơn so với các nước lớn. Điều này cho thấy tại sao các nước nhỏ thường mở rộng thương mại hơn so với các nước lớn (khi đo lường, chẳng hạn, bằng tỷ lệ xuất khẩu/ GDP). Đối với các nước nhỏ, việc cố gắng để sản xuất ra mọi hàng hoá trong nước chắc chắn là phi hiệu quả. Hiệu quả kinh tế theo quy mô là lý do quan trọng giải thích thương mại quốc tế về những hàng hoá nhất định nào đó. Rõ ràng nhất và cũng thực tế nhất là, một vài chủng loại sản phẩm rộng rãi như ngành hàng không dân dụng, là ngành mà cả thị trường thế giới nguyên vẹn cũng chỉ đủ lớn để ủng hộ cho một số nhà sản xuất. Nhưng điều tương tự cũng xảy ra đối với nhiều loại sản phẩm chế tạo chuyên môn hoá, đặc biệt là các sản phẩm công cụ sản xuất.
Ba là, sự khác nhau về thị hiếu, sở thích, phong tục tập quán, sự độc quyền về bản quyền, bằng phát minh sáng chế, tri thức chuyên môn của một số người.
Thị hiếu rất khác nhau cả giữa các nước lẫn mọi người. Điều này giải thích về việc buôn bán các sản phẩm rất giống nhau giữa các nước tương tự. Một tác động khác là sự tồn tại những bằng phát minh sáng chế của bản quyền. Công ty có quyền sở hữu về một phát minh sáng chế có thể từ chối cấp giấy phép sản xuất hoặc gia công sản xuất đối với các công ty ở nước khác, hoặc chỉ cho phép với điều kiện là các sản phẩm ấy được xuất khẩu. Điều này tạo cho nước sở hữu phát minh có một sự độc quyền thực sự về loại sản phẩm này trên thị trường thị giới.
Những lợi ích mà thương mại quốc tế đem lại đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nguồn tiết kiệm nước ngoài, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ. Thương mại quốc tế vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Chính vì vậy, nó được coi là bộ phận của đời sống hàng ngày"(1) Kinh tế học tập II - trang 322. David Begg . NXB KHKT 1996.
.
Nhận thức rõ ràng những điều đó, Đảng và Nhà nước đã có những bước đi đúng đắn trong đường lối đối ngoại của mình. Với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế quốc tế, mở cửa và hướng mạnh ra xuất khẩu đã làm cho nền kinh tế nước ta sống dậy, hoạt động ngoại thương trong những năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là lĩnh vực xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 10 năm trở lại đây đã liên tục tăng cả số lượng lẫn chất lượng với tốc độ tăng hàng năm là trên dưới 20% đóng góp 1 phần không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy, tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng ta đã khẳng định "Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính sách xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại và hoà bình. Đất nước ta đang từng bước chuyển mình theo nhịp độ sản xuất với những công nghệ khoa học tiên tiến của thế giới, với những dự án đầu tư đầy triển vọng của các bạn bè quốc tế. Chúng ta tin tưởng rằng, một ngày mai với hướng đi đúng đắn, với những ưu thế của mình, dưới sự lãnh đạo, quản lý sáng suốt của Đảng và Nhà nước, Việt Nam sẽ trỗi dâỵ sánh vai với các cường quốc trên thế giới".
2. Vai trò của kinh doanh xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước.
Chính vì vậy, nó có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hơn một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân.
Đối với nước ta, nền kinh tế còn chậm phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ, dân số lại phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh xuất khẩu là cực kỳ quan trọng. Trong thời kỳ phát triển theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thì xuất khẩu đã trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu. Người ta nhận thấy, thu nhập từ xuất khẩu vượt xa tất cả các nguồn vốn khác, kể cả các nước có trình độ phát triển chênh lệch nhau rất nhiều.
Thời đại ngày nay là thời đại hoà bình, mở rộng giao lưu kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Xu thế phát triển của nhiều nước là thay đổi chiến lược kinh tế từ "đóng cửa" sang "mở cửa" từ "thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả" sang "hướng mạnh vào xuất khẩu". Có thể nói đây là con đường duy nhất đúng đắn tạo ra sự tăng trưởng vượt bậc, rút ngắn khoảng cách chênh lệch với nước ngoài.
Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng, thể hiện:
2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
Để thực hiện đường lối công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị hiện dại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là, nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng tăng theo. Ngược lại, nếu nhập nhiều hơn xuất làm cho thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân.
2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp vói xu hướng phát triển cuả kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác dộng này thể hiện:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu cũng có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp bao bì phục vụ nó.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
2.3. Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị trường mà ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển của hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả do đó phụ thuộc rất lớn vào kỹ thuật công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn tìm tòi sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu trong nền kinh tế cạnh tranh còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh, đòi hỏi phải nâng cao tay nghề người lao động.
2.4. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
Thông qua hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động với thu nhập không thấp. Giải quyết được vấn đề bức xúc nhất trong xã hội hiện nay. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những vật liệu tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày một phong phú hơn của nhân dân.
2.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế. ...., xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế ...Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta vừa kể trên lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu.
Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh t