Kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang một cơ chế hoạt động mới - cơ chế thị trường thì hoạt động của các doanh nghiệp có nhiều thay đổi. Chính nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh là nền tảng đã làm bộc lộ những yếu kém của các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải từng bước khắc phục những nhược điểm cố hữu do cơ chế cũ để lại, nắm bắt được tác động của môi trường kinh doanh và thời cơ để kinh doanh thành công.
71 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ỏ Công ty sản xuất - Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ỏ Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex)
Lời nói đầu
K
ể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang một cơ chế hoạt động mới - cơ chế thị trường thì hoạt động của các doanh nghiệp có nhiều thay đổi. Chính nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh là nền tảng đã làm bộc lộ những yếu kém của các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải từng bước khắc phục những nhược điểm cố hữu do cơ chế cũ để lại, nắm bắt được tác động của môi trường kinh doanh và thời cơ để kinh doanh thành công.
Trong vài năm trở lại đây nền kinh tế thế giới, khu vực có nhiều biến động. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn ổn định, chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước trong công cuộc đổi mới.
Trong điều kiện nền kinh tế “mở” hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu (XNK) ngày càng thể hiện vai trò của mình trong sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Một trong những vấn đề đang được các doanh nghiệp quan tâm nhất hiện nay là duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bởi vì thông qua duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp mới có thể thực hiện được hoạt động tái sản xuất, mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Là một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh XNK, Công ty sản xuất xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội ( Haprosimex ) cũng rất quan tâm đến vấn đề duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ (XK) sản phẩm. Trong nhiều năm qua Công ty sản xuất XNK tổng hợp Hà Nội là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, kim ngạch XNK cao, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Ngân sách nhà nước, không ngừng nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong Công ty.
Xuất phát từ thực tế đơn vị thực tập cùng với kiến thức đã học ở trường, em mạnh dạn chọn đề tài:
“Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ỏ Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex)”.
Đề tài được chia làm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về thị trường và xuất khẩu sản phẩm.
Phần II: Thực trạng về công tác duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty.
Phần III: Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty.
Chuyên đề được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám đốc, các cô chú ở các phòng ban của Công ty và đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn -
Phần I
Lý luận chung về thị trường và xuất khẩu sản phẩm
I. Các vấn đề cơ bản về thị trường:
1. Khái niệm thị trường:
Thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá. ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có thị trường. “Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì qui mô sản xuất cũng tăng lên, sự phân công sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn” (Mác - Ănghen tuyển tập, tập II trang 614, NXB Sự Thật Hà Nội 1981).
Theo David Begg, thị trường “là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của các Công ty về sản xuất cái Jì, sản xuất như thế nào và cái quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả” (Kinh tế học, NXB GD Hà Nội 1994 trang 11).
Trên góc độ vĩ mô và lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng thì có thể định nghĩa thị trường như trên. Riêng trong lĩnh vực thương mại, khái niệm thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán hàng hóa, là nơi cung gặp cầu.
2. Các chức năng của thị trường.
Chức năng của thị trường là những tác động khách quan vốn có bắt nguồn từ bản chất thị trường với quá trình sản xuất và đời sống kinh tế xã hội.
Thị trường có 3 chức năng chính:
+ Chức năng thừa nhận: Thể hiện ở chỗ hàng hoá có được bán hay không, nếu bán được có nghĩa là được thị trường thừa nhận.
+ Chức năng thực hiện: Chức năng này được thể hiện ở chỗ thị trường là nơi diễn ra các hành vi mua bán. Người bán cần giá trị của hàng hoá và người mua cần giá trị sử dụng. Sự thực hiện về giá trị chỉ xảy ra khi nào thực hiện được giá trị sử dụng.
Như vậy, thông qua chức năng thực hiện của thị trường các hàng hoá và dịch vụ hình thành nên các giá trị trao đổi của mình để làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực.
+Chức năng điều tiết và kích thích: Chức năng này cho phép người sản xuất, người bán bằng nghệ thuật kinh doanh tìm được nơi tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ có lợi cho mình.
3. Phân loại và phân đoạn thị trường:
3.1 Phân loại thị trường:
Để có thể nghiên cứu và đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm duy trì và mở rộng thị trường, doanh nghiệp cần phân loại thị trường. Việc phân loại thị trường giúp doanh nghiệp có cách ứng xử phù hợp với mỗi loại thị trường. Trong kinh doanh, người ta đưa ra nhiều tiêu thức để phân chia thị trường:
a. Trên góc độ của vị trí lưu thông hàng hoá và dịch vụ để xem xét, thị trường bao gồm:
+ Thị trường trong nước, thị trường địa phương.
+ Thị trường ngoài nước, thị trường khu vực.
b. Trên góc độ đối tượng của lưu thông hàng hoá và dịch vụ để xem
xét, thị trường bao gồm:
+ Thị trường hàng hoá, thị trường tư liệu sản xuất.
+ Thị trường tiền tệ.
c. Trên góc độ chuyên môn hoá sản xuất và kinh doanh, thị trường bao gồm:
+ Thị trường hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
+ Thị trường hàng nông, lâm, thuỷ sản.
+ Thị trường hàng cơ khí, hoá chất, điện tử, vật liệu xây dựng...
d. Dựa trên tính chất của thị trường, thị trường bao gồm:
+ Thị trường cung ( thị trường bán), thị trường cầu (thị trường mua).
+ Thị trường độc quyền, thị trường cạnh tranh.
+ Thị trường đầu vào, thị trường đầu ra.
3.2. Phân khúc (đoạn) thị trường:
Phân khúc thị trường là việc căn cứ vào mục đích nghiên cứu và tiêu thức cụ thể để chia thị trường thành một số đơn vị nhỏ (đoạn, khúc) để doanh nghiệp, Công ty áp dụng chiến lược marketing thích hợp cho khúc hay đoạn thị trường đó.
Các doanh nghiệp cần phải phân khúc thị trường bởi vì thị trường là một thể thống nhất nhưng không đồng nhất, trong đó có nhiều người mua, người bán, có giới tính, thu nhập, tuổi tác khác nhau, đặc điểm thói quen tiêu dùng khác nhau và khả năng của các doanh nghiệp có hạn.
Chính vì vậy phải tìm cho mình một khúc thị trường nào đó phù hợp với đặc điểm của sản phẩm và áp dụng chiến lược marketing thích hợp với thị trường đó.
Thị trường rất đa dạng, do đó không phải thị trường nào cũng cần phân đoạn. Có thị trường vô khúc, thị trường đa khúc, đa đoạn.
Việc phân khúc, phân đoạn thị trường được dựa trên những tiêu thức cơ bản sau:
+ Tiêu thức dân số.
+ Tiêu thức địa lý.
+ Tiêu thức tâm lý.
+ Tiêu thức thái độ đối với khách hàng.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường:
Để thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp ngày càng phát triển thì việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng là một điều hết sức quan trọng. Qua đó có thể biết mà phát huy hay hạn chế nó và vận động cho phù hợp. Theo các nhà nghiên cứu thị trường, thì thị trường chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố cơ bản sau:
4.1 Nhân tố tập quán, dân số, văn hoá, xã hội.
Đây là một nhân tố hết sức quan trọng. Phong tục tập quán có ảnh hưởng đến việc tiêu dùng của người dân, dân số có tác động tới việc tiêu thụ hàng hoá dịch vụ. Những nước dân số đông nhưng nền kinh tế kém phát triển thì cầu về hàng hoá cấp thấp thường cao. Yếu tố văn hoá xã hội cũng có ảnh hưởng đến thị trường ...
4.2 Nhân tố kinh tế và thu nhập của dân cư.
Nhân tố này có tác động trực tiếp đến khả năng thanh toán cho nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ. Chẳng hạn như nước Nga là một quốc gia rộng lớn, dân số đông, nền kinh tế khá phát triển sẽ là một thị trường đầy tiềm năng ...
4.3 Điều kiện tự nhiên.
Đây là một nhân tố cũng khá quan trọng bởi nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến nhu cầu tiêu dùng. Chẳng hạn, chúng ta không ai lại có thể nói rằng một quốc gia có nhiệt độ nóng quanh năm lại là nơi có thể tiêu thụ sản phẩm giày hay quần áo ấm ... mà phải hướng vào các thị trường có khả năng như các nước Bắc Âu.
4.4 Chế độ chính sách, pháp luật, chi tiêu của chính phủ.
Bằng các công cụ tài chính, ngân hàng, ... nếu như Chính phủ khuyến khích phát triển một ngành nào đó trong nước là có thể điều tiết được. Nếu như Nhà nước muốn giảm thị phần của một loại sản phẩm nào đó thì Nhà nước sẽ đánh thuế cao, điều này dẫn tới giá cao, khách hàng sẽ giảm. Ngoài ra, chi tiêu của Chính phủ và định hướng của Chính phủ cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát triển và mở rộng thị trường.
4.5 Nhóm các nhân tố bên ngoài.
Đó là sự ảnh hưởng của các nước khác, các tổ chức quốc tế là hết sức quan trọng. Thông thường các quốc gia có tiềm lực về kinh tế mạnh hay có những áp đặt, điều kiện đối với các nước khác bằng các hình thức cấm vận, cấm buôn bán ... Điều đó sẽ gây khó dễ cho việc thực hiện các hợp đồng buôn bán, thương mại giữa các nước.
Trên đây là các nhân tố cơ bản nhất, ngoài ra thị trường còn chịu ảnh hưởng của rất nhiều những nhân tố khác như quan hệ cung cầu giá cả, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, tình hình chính trị xã hội ...
5. Nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường, hiểu một cách khái quát bao gồm quá trình các hoạt động thu thập và xử lý một cách có hệ thống và toàn diện các thông tin về thị trường, giúp cho nhà kinh doanh nắm bắt đầy đủ, chính xác và kịp thời tình hình thị trường để có các quyết định đúng đắn tác động đến thị trường.
Mục đích của hoạt động nghiên cứu thị trường là giúp cho các nhà kinh doanh xác định được những bộ phận thị trường mục tiêu mà nhà kinh doanh có thể hoạt động với nhiều lợi thế nhất, đồng thời giúp họ biết rõ về khách hàng, về đối thủ cạnh tranh, về tình hình cụ thể của thị trường để có các chính sách thích hợp chiếm lĩnh thị trường đó. Việc nghiên cứu thị trường chính là nghiên cứu các cơ hội kinh doanh để đưa ra các quyết đinh kinh doanh hợp lý. Nó có tầm quan trọng đặc biệt đến việc xác định đúng đắn phương hướng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
Nội dung của nghiên cứu thị trường được tiến hành theo hai nội dung cơ bản:
- Nghiên cứu khái quát về thị trường.
- Nghiên cứu chi tiết về thị trường.
II- Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng hóa
1- Khái niệm:
Xuất khẩu hàng hóa là hoạt động thương mại liên quan đến việc bán hàng hóa sang thị trường nước ngoài, bao gồm cả tái xuất (Reexport).
Tái xuất khẩu: là xuất khẩu hàng đã nhập về trong nước, không qua chế biến thêm, cũng có trường hợp hàng không về trong nước, sau khi nhận hàng thì giao hàng đó ngay cho người thứ 3.
2- Vai trò của hoạt động xuất khẩu:
2.1- Đối với nền kinh tế thế giới:
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên trong thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Do điều kiện khác nhau nên mỗi quốc gia đều có thế mạnh về lĩnh vực này nhưng lại hạn chế về lĩnh vực khác. Để có thể khai thác được lợi thế, tạo sự cân bằng trong sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau. Bằng việc khai thác các lợi thế so sánh các quốc gia tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hóa đó đã làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình một cách tốt nhất giúp tiết kiệm được nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn... trong qúa trình sản xuất hàng hoá. Vì vậy trên quy mô toàn thế giới thì tổng sản phẩm cũng sẽ được gia tăng.
2.2- Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia:
Đối với nền kt của mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hóa cho đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi nước đòi hỏi phải có 4 điều kiện: Nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật. Song không phải quốc gia nào cũng có đủ các điều kiện ấy. Trong thời kỳ hiện nay, hầu hết các nước đang phát triển đều thiếu vốn, kỹ thuật và thừa lao động. Để giải quyết tình trạng này buộc họ phải nhập từ bên ngoài những yếu tố mà trong nước không có khả năng đáp ứng. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để có đủ ngoại tệ cho nhập khẩu?
Thực tiễn cho thấy để có nguồn vốn nhập khẩu, một nước và đặc biệt là nước đang phát triển có thể sử dụng các nguồn vốn chính:
+ Đầu tư nước ngoài
+ Vay nợ, viện trợ
+ Thu từ xuất khẩu
Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài và nguồn vốn viện trợ vay nợ thì không ai có thể phủ nhận được. Song việc huy động nguồn vốn này không phải là dễ dàng. Để có được vốn vay, viện trợ thì những nước đi vay thường phải chấp nhận những thiệt thòi nhất định và dù bằng cách này hay cách khác thì cũng phải hoàn trả. Bởi vậy nguồn vốn quan trọng nhất mà mỗi quốc gia có thể trông chờ chính là vốn thu từ hoạt động xuất khẩu. Vĩ vậy xuất khẩu là hoạt động chính tạo tiền đề cho nhập khẩu, quyết định đến quy mô và tăng trưởng của nhập khẩu.
- Xuất khẩu góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các nước kém phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần ổn định sản xuất.
- Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn, kỹ thuật, công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa nền kinh tế nội địa tạo năng lực sản xuất mới.
- Xuất khẩu thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ càng phát triển thì phân công lao động càng sâu sắc. Ngày nay có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở nhiều nước khác nhau. Để hoàn thiện sản phẩm đó, người ta tiến hành xuất khẩu từ nước này sang nước khác để lắp ráp.
Hoạt động xuất khẩu với nhiều hình thức ngày càng đa dạng thể hiện sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Vì vậy nó chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động kinh tế đối ngoại và thực hiện những chức năng cơ bản sau:
- Lưu thông hàng hoá trong nước với thị trường nước ngoài.
- Tạo nguồn vốn và kỹ thuật từ bên ngoài có lợi cho qúa trình sản xuất trong nước, tăng thu ngoại tệ cho mỗi quốc gia.
- Xuất khẩu làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã hội và tổng thu nhập quốc dân nhằm thích ứng với nhu cầu tích luỹ.
- Xuất khẩu còn làm tăng hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo ra một môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh tăng khả năng khai thác lợi thế của quốc gia.
- Xuất khẩu tác động trực tiếp đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
- Xuất khẩu tạo tiền đề mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế trên cơ sở vì lợi ích của các bên, đồng thời gắn liền sản xuất trong nước với phân công lao động quốc tế.
Như vậy có thể nói, đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo ra những động lực cần thiết cho việc giải quyết những vấn đề thiết yếu của nền kinh tế.
2.3- Đối với các doanh nghiệp:
Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, mẫu mã... Những yếu đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành cơ cấu sản xuất mới phù hợp với thị trường.
Xuất khẩu là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, đồng thời có ngoại tệ để tái đầu tư vào qúa trình sản xuất, mở rộng quy mô để ngày càng khẳng định được vị thế của mình, nâng cao uy tín trong sản xuất kinh doanh.
3- Các hình thức kinh doanh xuất khẩu:
Trong mậu dịch quốc tế, việc thực hiện nhiệm vụ xuất khẩu thường áp dụng các hình thức cụ thể, trong đó có các biện pháp chủ yếu sau:
3.1. Xuất khẩu trực tiếp:
Trong phương thức này đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Hợp đồng ký kết giữa 2 bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời phải đảm bảo được lợi ích của đất nước và uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2. Xuất khẩu uỷ thác:
Trong phương thức này các đơn vị có hàng xuất khẩu gọi là bên uỷ thác giao cho một đơn vị xuất nhập khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của bên uỷ thác.
Bên cạnh hai hình thức xuất khẩu cơ bản trên, trong kinh doanh xuất nhập khẩu còn có các hình thức khác như:
- Mua đứt bán đoạn, hàng đổi hàng, gia công hàng xuất khẩu, tái xuất, chuyển khẩu...
4. Nội dung của kinh doanh xuất khẩu hàng hoá:
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động bán sản phẩm ra thị trường nước ngoài. Đây là hoạt động thương mại cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác nhưng nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố hơn đặc biệt là môi trường kinh doanh quốc tế và tiến trình phức tạp hơn hoạt động mua bán trong nước. Vì vậy nó được tổ chức với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu như:
4.1. Nghiên cứu thị trường quốc tế:
Có thể nói đây là hoạt động đầu tiên cần thiết tiến hành một cách cẩn thận, chu đáo. Công việc này bao gồm:
a. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới.
b. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng tới nó.
c. Lựa chọn đối tác buôn bán.
d. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
e. Lựa chọn các phương thức thanh toán.
4.2. Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở những kết quả thu được của quá trình nghiên cứu thị trường các đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Công việc này bao gồm:
a. Đánh giá tình hình thị trường.
b. Lựa chọn các mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh...
c. Đề ra mục tiêu cụ thể: khối lượng, giá, thị trường xuất khẩu...
d. Sơ bộ đánh giá kết quả.
4.3. Nguồn hàng cho xuất khẩu
Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một Công ty, một địa phương, một vùng hoặc một đất nước có khả năng xuất khẩu được.
Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể làm thu gọn hoặc có thể ký kết hợp đồng mua với các chân hàng, với các đơn vị sản xuất. Nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp.
4.4. Đàm phán ký kết hợp đồng:
Đàm phán là việc bàn bạc, trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường có các hình thức sau:
a. Đàm phán trực tiếp.
b. Đàm phán bằng thư tín.
c. Đàm phán qua điện thoại...
4.5. Thực hiện hợp đồng
Sau khi ký kết hợp đồng thì các bên liên quan tiến hành thực hiện hợp đồng.
Sơ đồ 1: Trình thự các bước thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Giục mở L/C và kiểm tra L/C
Xin giấy phép XNK
Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Uỷ thác
thuê tàu
Giao hàng
lên tàu
Làm thủ tục hải quan
Mua bảo hiểm hàng hoá (nếu có)
Kiểm định hàng hoá
Làm thủ tục thanh toán
Giải quyết tranh chấp (nếu có)
4.6. Tiếp tục hoạt động buôn bán:
III. Quan niệm về duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ
1. Thế nào là duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là việc duy trì và mở rộng nơi trao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ. Thực chất của nó là việc giữ và tăng thêm khách hàng cho doanh nghiệp.
Mở rộng thị trường theo chiều rộng nghĩa là lôi kéo khách hàng mới, khách hàng theo vùng địa lý, tăng doanh số bán với khách hàng cũ.
Mở rộng thị trường theo chiều sâu nghĩa là phân loại, cắt lớp thị trường để thoả mãn nhu cầu muôn hình muôn vẻ của con người. Mở rộng theo chiều sâu là qua sản phẩm để thoả mãn nhu cầu từng lớp, để mở rộng vùng địa lý. Đó là vừa tăng số lượng sản phẩm bán ra vừa tạo nên sự đa dạng về chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Sự đa dạng hoá về chủng loại mặt hàng và nâng cao số lượng hàng hoá bán ra là mở rộng thị trường theo chiều sâu.
Tóm lại, mở rộng thị trường theo chiều rộng hay chiều sâu cuối cùng phải dẫn đến tăng tổng doanh số bán hàng, nhằm mục đích đưa doanh nghiệp phát triển lên qui mô thị trường ngày càng lớn hơn.
2. Duy trì và mở rộng thị trường là một tất yếu khách quan đối với các doanh