Đề tài Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty DETESCO Việt Nam

Cùng với việc chuyển sang cơ chế thị trường, nền kinh tế mở cửa và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hoạt động xuất nhập khẩu chiếm một vị trí ngày càng quan trọng hơn trong nền kinh tế Việt Nam. Nó là hoạt động kinh doanh mang tính chất quốc tế làm cầu nối kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới. Hiện nay hoạt động XNK đang là lĩnh vực sôi động nhất trong nên kinh tế.

doc76 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty DETESCO Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Cùng với việc chuyển sang cơ chế thị trường, nền kinh tế mở cửa và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hoạt động xuất nhập khẩu chiếm một vị trí ngày càng quan trọng hơn trong nền kinh tế Việt Nam. Nó là hoạt động kinh doanh mang tính chất quốc tế làm cầu nối kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới. Hiện nay hoạt động XNK đang là lĩnh vực sôi động nhất trong nên kinh tế. Xuất nhập khẩu là hai hoạt động có tác động rất lớn đến nền kinh tế, nó có tính chất quyết định với quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước bởi hai hoạt động này đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của văn háo nhân loại. Chính vì vậy nắm bắt được nó chính là đã nắm bắt được điểm mấu chốt để phát triển sản xuất, phát triển đất nước. Hiện nay trên thị trường các bạn hàng quốc tế hết sức sành sỏi về kinh nghiệm, giỏi về nghiệp vụ, hiện đại về cơ sở vật chất kỹ thuật trong khi chúng ta còn đang kém về mọi mặt thì việc luôn bất bình đẳng, không bị thiệt thòi với họ là rất khó khăn. Chính vì vậy nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu để hiểu rõ, nhận thức được các vấn đề hữu ích và rút ra kinh nghiệm là điều cần thiết. Với nhận thức trên cùng với mong muốn được học tập, tìm hiểu mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, tôi quyết định chọn đề tài : "Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty DETESCO Việt Nam" Là một đề tài hấp dẫn đối với tôi, bởi vậy kiến thức đã được trang bị trong nhà trường cũng như sự tìm hiểu qua sách báo vận dạng vào nơi thực tập, tôi mong muốn được tìm hiểu phần nào vấn đề nhằm củng cố mở mang kiến thức của mình trong lĩnh vực này. Nội dung bài viết bao gồm các vấn đề sau: Phần I: Những vấn đề cơ sở lý luận chung về hoạt động XNK. Phần II: Nghiên cứu hoạt động XNK tại Công ty DETESCO Việt Nam. Phần III: Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty DETESCO Việt Nam. Phần I Những vấn đề cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất nhập khẩu I/ Khái niệm, vai trò, chức năng của hoạt động xuất nhập khẩu Như ta đã biết, hoạt động thương mại quốc tế là hết sức cần thiết vì nó cho phép khai thác lợi thế của nước xuất khẩu và đồng thời mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu. Thực tế cho thấy mỗi quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn tồn tại được, cùng một lúc chúng ta không thể có mọi thứ đều tốt đẹp nhất, tốt nhất, độc đáo nhất, nếu không có sự trao đổi mua bán, chính việc trao đổi mua bán các giá trị sử dụng khác nhau làm cho mỗi quốc gia có quỹ hàng hoá phong phú, đa dạng, đời sống khá giả, sung túc và thịnh vượng. Đối với nước ta thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy tiềm năng và thế mạnh trong nước và nước ngoài một cách có lợi nhất. Trên cơ sở đó, tiến hành phân công lại lao động, khai thác mọi tiềm năng để sản xuất nhiều dịch vụ hàng hoá xuất khẩu. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã nhận thức được vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của đất nước, đã chủ trương phát triển một nền kinh tế mở cửa tăng cường quan hệ với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng đôi bên cùng có lợi. Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thời đại và xu hướng phát triển của thế giới đưa nền thương mại quốc tế nước ta tiến lên không ngừng trong những năm qua, thúc đẩy nền kinh tế với tốc độ cao. Sau đây ta đi sâu nghiên cứu cụ thể hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu. 1/ Hoạt động xuất nhập khẩu 1.1.Khái niệm về xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá ở trong nước ra nước ngoài tiêu thụ để thu ngoại tệ. Xét dưới góc độ này xuất khẩu thuộc hành vi hàng-tiền. Hàng xuất khẩu được coi là điều kiện vật chất hoặc phương tiện cụ thể để kinh doanh còn doanh thu ngoại tệ là mục tiêu hàng xuất khẩu bao gồm: hàng sản xuất trong nước, hàng xuất khẩu tại chỗ (bán cho các tổ chức cá nhân, người nước ngoài đang cư trú trong nước), hàng hoá nhập khẩu để tái xuất và các loại hàng hoá liên doanh với nước ngoài để sản xuất và xuất khẩu. 1.2. Vai trò và chức năng của hoạt động xuất khẩu Trong hầu hết các quốc gia, vấn đề xuất khẩu thường rất được chú trọng và quan tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Thực tế chứng minh rằng trong những quốc gia mà việc xuất khẩu hàng hoá chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động ngoại thương thì quốc gia đó có một nền kinh tế phát triển ổn định và vững mạnh. Xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tếcó thể thấy ở các mặt sau: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, xuất khẩu là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn, xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế hướng ngoại, xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân, xuất khẩu thúc đẩy khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ,... Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và trưng thu ngoại tệ. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu bởi công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn đển nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật và vật tư, công nghệ tiên tiến. Có một số nguồn vốn để nhập khẩu như nguồn vốn tự có, nguồn vốn từ nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ...Nguồn vốn tự có của một nước đang phất triển như Việt nam là rất hạn chế, vay nợ và viện trợ cũng phải trả bằng cách này hay cách khác, do đó để nhập khẩu nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế hướng ngoại. Vì: thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta là phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Sự tác động của xuất khẩu đối với sẩn xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau: - Xuất khẩu những sản phẩm của nước ta cho nước ngoài. - Xuất phát từ nhu cầu thực tế của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà các nước khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuát phát triển. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan phát triển thuận lợi. Ví dụ: Khi phát triển dệt sẽ tạo điều kiện phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu như dầu thực vật, chè kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị. - Xuất khẩu tạo diều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ. cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước. - Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta. - Thông qua xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam sẽ tham gia cạnh tranh với hàng hoá khác trên thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thế giới. - Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn có vai trò quan trọng trong việc tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Mặt khác, xuất khẩu còn là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta: xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn như xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế... đến lượt nó chính các quan hệ đối ngoại lại tạo tiền đề để mở rộng xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu còn kích thích sản xuất trong nước phát triển, trước hết là trong nông nghiệp và các ngành chế biến qua đó thúc đẩy phân công lao động phát triển. Nhờ có hoạt động xuất khẩu hàng hoá mà một số ngành nghề truyền thống đã được khôi phục, hình thành các vùng chuyên canh trong nông - lâm - ngư nghiệp dựa trên những ưu thế về điều kiện tự nhiên đất đai, khí hậu, lao động... Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước Xuất khẩu Việt Nam mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về kim nghạch và cơ cấu cũng như thị trường song còn nhiều vấn đề phải khắc phục. Phân tích hoạt động kinh doanh xuất khẩu thời gian gần đây có thể rút ra một số kết luận: - Tuy tốc độ xuất khẩu tăng nhanh nhưng quy mô còn rất nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu cần nhập khẩu của nền kinh tế. - Cơ cấu xuất khẩu thay đổi chậm, phần lớn xuất khẩu nguyên liệu ở dạng sơ chế. Chất lượng hàng hoá xuất khẩu của ta còn thấp nên khả năng cạnh tranh còn thấp. - Hàng xuất khẩu còn manh mún, chưa có hàng xuất khẩu chủ lực. - Kim ngạch xuất khẩu thấp, nhưng lại có quá nhiều đơn vị tham gia hoạt động xuất nhập khẩu dẫn đến tăng hàng hoá nhập khẩu và bán rẻ hàng xuất khẩu tạo điều kiện cho thương nhân nước ngoài ép giá. Để khắc phục tình trạng trên, trước hết hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau: - Mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có. - Phải ra khai thác mọi nguồn lực của đất nước như đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật - công nghệ chất xám theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối so sánh. - Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. - Tạo những mặt hàng, nhóm hàng chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. Bên cạnh đó cần phải phát triển nguồn hàng xuất khẩu như: - Căn cứ vào tình hình và xu hướng phát triển của thị trường - Căn cứ vào nguồn lực bên trong bao gồm dân số và lao động, tài nguyên thiên nhiên... - Căn cứ vào hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh. - Căn cứ vào chiến lược chuyển hướng xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm thô sang hàng hoá có chứa hàm lượng khoa học kỹ thuật. - Hình thành các vùng chuyên sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. 1.3. Các công cụ quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu ở Việt Nam Việc quản lý xuất khẩu được thực hiện bằng cơ chế giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu và bằng các quy chế quản lý ngoại tệ. Không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài dạng xuất khẩu, như sản phẩm đặc biệt-nguyên liệu quý- do nhu cầu trong nước còn thiếu hoặc có ý nghĩa chiến lược đối với quốc gia. Nhưng nguyên nhân chủ yếu phải kiểm soát xuất khẩu của nước ta là do: Cấm vận buôn bán, bảo vệ tiềm năng, bảo vệ động vật và cây trồng, bảo vệ di sản văn hoá và các đồ cổ... 1.3.1. Thủ tục hải quan xuất khẩu hàng hoá Hàng xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan khi xuất khẩu theo các quy định chính thức về xuất khẩu hàng hoá và có khi theo yêu cầu của nước nhập khẩu.Việc làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá liên quan tới các biện pháp quản lý như: - Hạn chế số lượng ( giấy phép xuất khẩu) - Hạn chế ngoại tệ (giám sát ngoại hối) - Hạn chế tài chính (kiểm tra hải quan, thuế quan) - Nhu cầu thống kê thương mại (báo cáo thống kê) - Kiểm tra số lượng, chất lượng, kiểm tra vệ sinh y tế. - Kiểm tra áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế quan (giấy chứng nhận xuất xứ) Các chứng từ phục vụ cho việc kiểm tra hải quan khi xuất khẩu hàng hoá gồm: - Giấy phép xuất khẩu - Tờ khai kiểm tra ngoại hối. - Tờ khai hàng hoá (Khai hải quan) - Giấy chứng nhận kiểm tra hàng hoá - Giấy chứng nhận kiểm dịch thực, động vật - Giấy chứng nhận xuất xứ - Tờ khai hàng nguy hiểm - Hoá đơn lãnh sự (nếu có) hoặc hoá đơn thương mại Khi làm thủ tục hải quan thông thường phải kiểm tra tư cách pháp nhân của người xuất khẩu, cũng như kiểm tra các chứng từ có hợp lệ và đúng quy định không. 1.3.2. Thủ tục Các hình thức hạn chế xuất khẩu được áp dụng tuỳ từng nước, từng mặt hàng. Một số nước chỉ cho phép một số tổ chức có quyền xuất khẩu một số mặt hàng nhất định. ở Việt Nam, chế độ hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo quyết định số 96/HĐBT ngày 5/04/1994 của Hội đồng bộ trưởng về quản lý xuất nhập khẩu. Hàng năm. Bộ Thương mại công bố danh mục các mặy hàng quản lý bằng hạn ngạch sau khi thống nhất với Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ quản lý sản xuất và được Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Sau đó, Bộ Thương mại phân bố hạn ngạch cho các ngành, các địa phương. 1.3.4. Quản lý ngoại tệ Đa số các nước đang phát triển đều quy định cho các nhà xuất khẩu phải chuyển khoản ngoại tệ vào ngân hàng thương mại được phép khinh doanh ngoại tệ. Nhưng cũng có nhiều nước cho phép dùng số ngoại tệ thu được do xuất khẩu để nhập khẩu hàng hóa cần thiết. Người xuất khẩu phải biết chắc chắn là người mua có quyền thanh toán hàng hoá bằng ngoại tệ mà ngân hàng quản lý cho phép đối với hàng xuất khẩu của mình. Thông thường các ngân hàng công bố các loại ngoại tệ có thể nhập khi xuất khẩu. Đố thường là những loại ngoại tệ tự do chuyển đổi. Một biện pháp quan trọng nữa là Nhà nước cấm gửi ngoại tệ thu được do xuất khẩu vào các ngân hàng ở nước ngoài. Nếu người đó mở tài khoản ở nước ngoài thì lô hàng đó chưa được thanh toán và người xuất khẩu đã vi phạm chế độ quản lý ngoại hối. 2. Hoạt động nhập khẩu 2.1. Khái niệm nhập khẩu Nhập khẩu là hoạt động mua hoặc trao đổi hàng hoá của các tổ chức cá nhân trong nước với các tổ chức hoặc cá nhân ngoài nước. Hàng hoá nhập khẩu có thể là : Hàng sản xuất ở nước ngoài, hàng của các tổ chức và cá nhân nước ngoài nhưng được sản xuất ở trong nước (sản phẩm của các tổ chức và cá nhân nước ngoài dặt tại nước ta) 2.2. Vai trò và nhiêm vụ của hoạt động nhập khẩu Nhập khẩu là một bộ phận cấu thành của quan hệ ngoại thương. Thực tế đã chứng minh rằng, nhập khẩu không thể thiếu và không thể tách rời đối với nền thương mại quốc tế. Không có quốc gia nào chỉ có xuất khẩu mà không có nhập khẩu. Trong nền kinh tế mở, xuất khẩu có nhiệm vụ khai thác tiềm năng nền kinh tế dưa ra trao đổi, tạo động lực thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. Nhập khẩu là tất yếu để thoả mãn nhu cầu của nhân dân, đáp ứng nhu cầu máy móc thiết bị cho sản xuất và tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến để công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Có thể nói, điều này là phù hợp với một nền kinh tế đang phát triển có xuất phát điểm thấp như Việt Nam. Có thể thấy được vai trò của nhập khẩu qua các khía cạnh sau: - Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, cải thiện đời sống của nhân dân. - Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch kinh tế theo hướng xuất khẩu, từng bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế, Nhà nước ta bằng công cụ qủn lý của mình tác động đến hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp theo hướng hạn chế nhập khẩu hàng xa xỉ, khuyến khích nhập khẩu vật tư phục vụ sản xuất, nhập khẩu các thiết bị công nghệ mới nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. - Nhập khẩu khoa học kỹ thuật hiện đại kéo theo sự đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật. Trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại đòi hỏi phải có một lớp người mới, từ đó làm nảy sinh nhu cầu đào tạo cán bộ thích nghi với trình độ kỹ thuật và quản lý mới. - Nhập khẩu góp phần quan trọng vào việc phát triển các ngành có mối quan hệ bổ sung với các ngành công nghiệp hoá. Chẳng hạn để phát triển ngành luyện kim theo hướng hiện đại hoá thì ngành khai khoáng cũng cần được đầu tư trang thiết bị và công nghệ khai thác mới nhằm đạt năng suất cao hơn, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho ngành luyện kim. - Nhập khẩu có tác dụng tích cực giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Nhập khẩu các máy móc thiết bị, đầu tư xây dựng các nhà máy mới sẽ thu hút nhiều lao động, hạn chế các tệ nạn xã hội do tình trạng thất nghiệp gây ra. - Nhập khẩu có vai trò quan trạng và tích cực đối với xuất khẩu. Nhập khẩu hiện đại hoá công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế để xuất khẩu. Bên cạnh đó, nhập khẩu công nghệ mới góp phần nguyên vật liệu đầu vào, giảm hao phí sản xuất qua đó giảm giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. - Nhập khẩu cho phép cải tạo hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng, hệ thống thông tin liên lạc làm tiền đề để phát triển kinh tế. Ngoài ra, nhập khẩu còn thể hiện ưu thế của nó trên các mặt: - Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa hàng nội với hàng ngoại, buộc các nhà sản xuất trong nước cải tiến chất lượng sản phẩm cũng như hạ giá thành hướng tới người tiêu dùng. Nó phát huy được tính năng động sáng tạo của mỗi doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong kinh doanh tạo nên một nền kinh tế vững mạnh. - Nhập khẩu làm cho các luồng thông tin được khai thông, đồng thời là cầu nối thông suốt giữa thị trường trong và ngoài nước, thúc đẩy nước ta tham gia vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy ưu thế của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá. Nhập khẩu với sự tồn tại và phát triển của nó đã góp phần vào việc hoàn thiện cơ chế quản lý nhập khẩu của Nhà nước thông qua các đòi hỏi hợp lý của các chủ thể tham gia nhập khẩu Nói tóm lại, nhập khẩu đang góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế, sự phát triển của đất nước. Trong thời kỳ mở cửa của Việt Nam thời gian qua, nhập khẩu đã thể hiện vai trò to lớn của nó. Ta có thể thấy được điều này qua tình hình thị trường hàng hoá sôi động, sức cạnh tranh mạnh mẽ, sự phát triển nhanh chóng của hệ thống cơ sở hạ tầng và thống tin liên lạc, sự hoà nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Để tiếp tục phát huy vai trò của nhập khẩu, Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể thành những nguyên tắc trong hoạt động xuất nhập khẩu như sau: - Sử dụng vốn ngoại tệ tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao. - Nhập khẩu thiết bị hiện đại, phù hợp. - Nhập khẩu theo nguyên tắc bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước. - Chú ý thích đáng đến nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu. - Kết hợp nhập khẩu với xuất khẩu. 2.3. Các công cụ quản lý nhập khẩu của Việt Nam. Mở cửa tự do hoá thương mại và bảo hộ kinh tế là hai xu hướng đối lập nhau. Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, để bảo vệ cho nền kinh tế trong nước thì biện pháp quan trọng nhất là quản lý nhập khẩu. Các quốc gia đều có những công cụ quản lý nhập khẩu riêng của mình. Việt Nam hiện nay đang quản lý nhập khẩu bằng các công cụ sau: 2.3.1. Thuế nhập khẩu Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là để bảo vệ sản xuất trong nước, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được đánh thuế theo luật thuế do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 26/12/1994 là những hàng hoá được phép nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam kể cả hàng từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước. Có nhiều cách tính thuế khác nhau như tính và thu một lần một số tiền nào đó hoặc tính theo tỷ lệ % nhất định trên tổng trị giá hàng hoá hoặc kết hợp cả hai phương pháp này. ở Việt Nam, cách tính thuế là lấy số lượng hàng thực tế nhân với giá tính thuế do Bộ Tài chính quy định, sau đó nhân với thuế suất theo biểu thuế. Có 2 loại thuế: - Thuế ưu đãi: là loại thuế dành cho cac hàng hoá nhập khẩu từ các nước được hưởng quyền
Tài liệu liên quan