Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn gắn liền với môi trường và thị trường nhất định. Do vậy doanh nghiệp phải có kiến thức về thị trường giá cả và đặc biệt là cách ứng xử các yếu tố chi phí đầu vào đầu ra nhằm đạt được mức lợi tức tối đa trong kinh doanh. Giá cả của sản phẩm hàng hoá là nhân tố khách quan, được hình thành trên thị trường là kết quả của sự tác động tổng hợp các quy luật kinh doanh khách quan, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật giá. Trong đó quy luật giá trị là quy luật phản ánh bên trong của doanh nghiệp, có tính chất quyết định đến phương hướng sản xuất và trao đổi hàng hoá trên thị trường.
78 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm tại công ty Pin Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn gắn liền với môi trường và thị trường nhất định. Do vậy doanh nghiệp phải có kiến thức về thị trường giá cả và đặc biệt là cách ứng xử các yếu tố chi phí đầu vào đầu ra nhằm đạt được mức lợi tức tối đa trong kinh doanh. Giá cả của sản phẩm hàng hoá là nhân tố khách quan, được hình thành trên thị trường là kết quả của sự tác động tổng hợp các quy luật kinh doanh khách quan, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật giá. Trong đó quy luật giá trị là quy luật phản ánh bên trong của doanh nghiệp, có tính chất quyết định đến phương hướng sản xuất và trao đổi hàng hoá trên thị trường.
Quy luật giá trị yêu cầu nhà sản xuất hàng hoá phải không ngừng cải tiến sản xuất, tiết kiệm chi phí để chi phí cá biệt của mình trên một đơn vị sản phẩm hàng hoá thấp hơn giá trị lao động cần thiết bao gồm giá trị lao động quá khứ. (NVL, thiết bị, máy móc) và lao động sống. Nó được xác định bởi điền kiện sản xuất trung bình, trình độ khéo léo trung bình. Chỉ khi chi phí sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp thấp hơn giá trị lao động cần thiết thì doanh nghiệp mới có lợi tức. Chi phí sản phẩm sản xuất càng nhỏ so với giá trị xã hội cần thiết thì doanh nghiệp càng có nhiều lãi. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ bị lỗ sản xuất càng nhiều thì càng bị lỗ.
Trên thực tế ở công nghiêp chi phí không được ký hiệu sẵn về cách ững xử của nó cho nên chúng ta phải nghiên cứu, thông qua quá trình phân tích các biến độg chi phí sản xuất kinh doanh nhằm xác định cách ứng xử và ước tính về chúng.
Phân tích biến động chi phí sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp nhận diện các hoạt động sinh ra chi phí và triển khai các chi phí dựa trên hoạt động. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc kiểm soát chi phí để lập kế hoạch và ra các quyết định sản xuất kinh doanh cho tương lai.
Gắn liền với chi phí kinh doanh là giá thành sản phẩm. Có thể nói chi phí và giá thành là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất.
Có thể nói giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh và đo lường kết quả kinh doanh. Đồng thời chỉ tiêu giá thành còn giữ chức năng thông tin và kiểm tra về chi phí giúp cho người quản lý có cơ sở để đề ra các quyết định đúng đắn, kịp thời. Muốn tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm phải nâng cao chất lượng công tác. Phân tích giá thành sản phẩm là cách tốt nhất để hiểu biết nguyên nhân, và nhân tố làm cho chi phí biến động ảnh hưởng tới giá thành. Từ đó người quản lý sẽ có quyết định tối ưu hơn.
Là một phần rất quan trọng của kế toán hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với chức năng giám sát và phản ánh trung thực, kịp thời các thông tin về số chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ, tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm… sẽ giúp các nhà quản trị chỉ ra được con đường, biện pháp sử dụng chi phí sản xuất biết tiết kiệm, hiệu quả nhằm giảm giá thành. Nói cách khác, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành là công cụ giúp các nhà quản trị lựa chọn phương án sản xuất tối ưu, thấy được khả năng thực hiện được phương án đó đồng thời là căn cứ xác định giá bán sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi và tính được lãi của doanh nghiệp.
Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của công tác hoạch toán chi phí và tính giá thành, qua thời gian thực tập tại công ty Pin Hà Nội em chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm tại công ty Pin Hà Nội ”. và đóng góp những đề xuất của mình vào việc hạ giá thành sản phẩm tại công ty Pin Hà Nội.
Chương I
Một số cơ sở lý thuyết về chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm
1. Sự cần thiết phải hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm.
Trong các doanh nghiệp kinh doanh nói chung, Kế toán đóng một vai trò hết sức quan trọng trong giá trị doanh nghiệp vì Kế toán là một công cụ có hiệu lực nhất để điều hành, quản lý, kiểm tra, tính toán có hiệu quả các hoạt động trong doanh nghiệp.
Mặt khác, đối với doanh nghiệp sản xuất thì chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Thông qua việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm thực tế của từng hoạt động, từng loạI sản phẩm cũng như kế quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phân tích tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí, tình hình sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để từ đó có các quyết định quản lý thích hợp. Việc phấn đấu hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Điều đó khẳng định sự cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất là phải tổ chức hạch toán sản xuất kinh doanh một cách chính xác và đúng, tính đủ giá thành sản phẩm của mình.
Xuất phát từ sự cần thiết đã phân tích ở trên mà đòi hỏi công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần phải thuộc những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp và xác định tiêu thức phân bổ phù hợp phương pháp tính giá thành thích hợp.
- Tổ chức tốt hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải đảm bảo phối hợp nhịp nhàng và tạo thuận lợi có các phần hành Kế toán khác trong doanh nghiệp.
- Phần hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cho lãnh đạo doanh nghiệp và tiến hành thực hiện các địn mức chi phí và dự toán chi phí tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và hạ giá thành sản phẩm, phát hiện khả năng tiềm tàng đề xuất các biện pháp thích hợp để phấn đấu không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm với các nhà quản trị doanh nghiệp .
2. Chi phí sản xuất.
2.1. Bản chất nội dung kinh tế của chi phí sản xuất.
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loàI người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động.
Đồng thời quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao chính bản thân các yếu tố trên. như vậy để tiến hành sản xuất hàng hoá, những sản phẩm phải bỏ ra chi phí về tiêu hao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động vì thế sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Vậy chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành lao động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp bỏ ra trong một thời kỳ.
Chi phí sản xuất bao gồm 2 bộ phận:
- Chi phí về lao động sống: Là chi phí về tiền công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn vào chi phí tiền công phải trả đó. Khoản chi phí này chính là yếu tố sức lao động một trong 3 yếu tố có bản của nền sản xuất.
- Chi phí về lao động vật hoá: Bao gồm chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí NVL , chi phí về lao động vật hoá là 2 yếu tố tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Cần phải phân biệt giữa chi phí và chi tiêu, vhỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động cơ liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán.
Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần của các loại vật tư tài sản, tiền vố của doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích giá trị. Tổng số chi tiêu của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua sắm vật tư, hàng hoá .), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (khi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý.) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyên bốc dỡ, quảng cáo).
Chi phí và chi tiêu là 2 khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng số chi phí kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau vì lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng tính vào chi phí kỳ sau (chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản trích vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí phải trả). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm tính chất vận động và phương thức dịch chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chung..
2.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh.
Chi phí sản xuất kinh doanh cớ thể được phân loại theo nhiều tiền thức khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu của công tác quản lý. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường được phân bổ theo tiêu thức sau.
2.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí.
Để phụ vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo một nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi phí được phân loại theo yếu tố sản xuất. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra, phân tích dự toán chi phí. Theo quy định của Việt Nam. chi phí được phân loại theo 7 yếu tố sau.
- Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ gí trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ.. sử dụng vào sản xuất kinh doanh (Loại trừ giá trị không dùng hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực)
- Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết lại kho và giá trị thu hồi).
- Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ, trích theo tỷ lệ quy đinh trên tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên.
- Yếu tố khấu hao TSCĐ: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
- Yếu tố chi phí bằng tiền khác: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
2.2.2. Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành tàon bộ, chi phí được phân loại theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành thì giá thành sản phẩm bao gồm 5 khoản mục chi phí sau:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu phụ
Chi phí sản xuất chung
Chi phí bán hàng
Chi phí quản lý doanh nghiệp.
2.2.3. Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng công việc sản phẩm hoàn thành.
Để thuận lợi cho việc lập khấu hao chi phí và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi sản xuất kinh doanh lại được phân loại theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành, theo cách này chi phí được phân loại theo biến phí và định phí.
- Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí NVL, nhân công trực tiếp. Cần lưu ý rằng những chi phí biến đổi nếu tính trên 1 đơn vị sản phẩm hoàn thành thì lại là chi phí cố định.
- Định phí: Là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn như chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh, chi phí này nếu tính cho 1 đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nên số lượng sản phẩm thay đổi.
Cách phân loại này có tác dụng lớn đối với quản trị doanh nghiệp. Phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm và tăng hiệu quả kinh doanh.
2.2.4. Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí.
Theo cách thức kết chuyển, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chi thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với những sản phẩm sản xuất ra hoặc được mua còn chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được làm ra hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh.
2.3. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là công việc đầu tiên và quan trọng của tổ chức hạch toán quá trình sản xuất. Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm 2 giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định.
Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lý, kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ và theo đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ của từng sản phẩm, doanh nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định có thể nói, việc phân chia quá trình hạch toán thành hai gia đoạn là do có sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất tức đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị tức là đối tượng tính giá thành.
Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và chịu chi phí. Trên cơ sở đối tượng hạch toán chi phí Kế toán lựa chọn phương pháp hạch toán (tập hợp) chi phí thích ứng.
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hach toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm vv... Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là Kế toán mở thẻ (hoặc sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến từng đối tượng hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán chỉ thích ứng với một loại hạch toán chi phí nên tên gọi của các phương pháp này là biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí.
3. Nguyên tắc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Để đảm bảo hạch toán đầy đủ, chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, cung cấp thông tin kịp thời cho các nhà quản trị doanh nghiệp, Kế toán cần quán triệt nguyên tắc sau:
3.1. Phải nắm vững nội dung và bản chất của chi phí.
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Nói cách khác, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phỉa tiêu dùng trong một kỳ hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thực chất chi phí là sự dịch chuyển vốn chuyển gía trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá thành.
3.2. Phải phân loại chi phí sản xuất thích hợp theo yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán.
Do chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại nên cần thiết phải phân loại chi phí nhằm tạo điền kiện cho công tác quản lý và hạch toán chi phí. Phân loại chi phí là việc sắp xếp các loại chi phí khác nhau vào từng nhóm thưo những đặc trưng nhất định. Trên thực tế có rất nhiều cách phân loại khác nhau, tuy nhiên lựa chọn tiêu tức phân loại nào là phải dựa vào yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán.
3.3. Phải phân định chi phí và giá thành sản phẩm và phảI nắm rõ quan hệ giữa chúng.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm lao vụ đã hoàn thành.
Về thực chất, chi phí và giá thành là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất, chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí của sản xuất còn giá thành sản xuất phản ánh mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí tính trước có có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao cụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản xuất là biểu hiện toàn bộ bằng tiền các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kỳ ở giai đoạn nào nhưng có liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ.
Sơ đồ quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
A. Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
D
B Chi phí sản xuất dở dang phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm C
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Qua sơ đồ ta thấy:
AB + BD – CD = AC hay
Tổng giá thành sản phẩm = CFSXDD + CPSX phát sinh - CFSXDD
đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang (Chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và chi phí cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí phát sinh trong kỳ.
3.4. Phải nắm vững các cách phân loạii giá thành khác nhau phục vụ cho công tác quản lý và hạch toán.
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Mỗi một cách phân loại có một tác dụng khác nhau đối với công tác quản lý và hạch toán. Giá thành có thể được phân theo phạm vi, theo nguồn số liệu và thời điểm giá thành.
3.5. Xác định đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm phù hợp.
Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được chính xác, đòi hỏi công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải làm là xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác đinh giới hạn tập hợp chi phí. Còn việc xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị.
Do có sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà có sự phân biệt giữa phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành sản phẩm. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loạI các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn đối tượng của đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Phương pháp tính giá thành sản phẩm là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tính giá thành sản phẩm và đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán cho từng đối tượng tính giá thành.
3.6. Xác định trình tự hạch toán và tổng hợp chi phí sản xuất thích ứng.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp vào mỗi quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, vào trình độ công tác quản lý và hạch toán, mà trình tự hạch toán chi phí ở các doanh nghiệp khác nhau thì không giống nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước cơ bản sau.
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phụ có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng sử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loạI sản xuất có liên quan.
Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà nội dung, cách thức hạch toán chi phí sản phẩm có những điểm khác nhau.
4. Giá thành sản phẩm.
4.1. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện b