Chúng ta biết rằng mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông là đào tạo nên những con người phát triển toàn diện, có khả năng thích ứng nhanh, nhạy trước mọi yêu cầu của đất nước đã hội nhập trong giai đoạn hiện tại. Vì vậy vấn đề đặt ra là xã hội đang cần có một lực lượng thế hệ trẻ vừa “hồng”, vừa “chuyên”, thực sự năng động, sáng tạo, tự chủ trong cuộc sống, trong công việc, trong ý thức đóng góp sức lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Để đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng nước nhà trong giai đoạn hiện tại, theo em việc rèn luyện ý thức tự giác cao trong mọi hoạt động ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường là một yếu tố vô cùng quan trọng.
Bác Hồ từng nói “Một năm bắt đầu từ mùa xuân, cuộc đời bắt đầu từ tuổi trẻ”, mà tuổi trẻ của một đời người phần lớn lại gắn với mái trường, ở đó họ nhận được sự quan tâm, dạy dỗ của các nhà giáo dục, tại đây nhân cách của các em sẽ hình thành, định hướng, phát triển. Như vậy có thể nói, nhà trường chính là “chiếc nôi” đầu tiên đưa các em vào đời.
Trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay ở đất nước ta, vấn đề giáo dục toàn diện cho con người càng trở lên cấp thiết đặc biệt là vấn đề giáo dục thẩm mĩ cho thế hệ học sinh. Vì vậy mục tiêu của giáo dục Việt Nam được ghi rất rõ trong Khoản 1 Điều 27 Luật giáo dục 2005: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong công tác giáo dục học sinh, nhà trường rất coi trọng nội dung giáo dục thẩm mĩ, coi đó là một bộ phận không thể thiếu được của quá trình giáo dục toàn diện. Con người có trí tuệ thông minh, có sức khỏe cường tráng, nếu thiếu óc thẩm mĩ vẫn không được coi là con người toàn diện trong một xã hội hiện đại. Óc thẩm mĩ có vai trò to lớn trong nhận thức và trong lao động sáng tạo của con người.
Giáo dục thẩm mĩ trở nên hết sức quan trọng vì nó có tác động mạnh đến trí tuệ, đến tình cảm đạo đức, đến quá trình hình thành những nét đẹp trong hành vi, thói quen của học sinh, đến khả năng sáng tạo – một phẩm chất cực kỳ quý báu của con người hiện đại.
Xuất phát từ tầm quan trọng của giáo dục thẩm mĩ và quá trình giáo dục thẩm mĩ đối với sự phát triển toàn diện của học sinh THPT, từ thực trạng công tác giáo dục thẩm mĩ trong các trường phổ thông hiện nay còn nhiều bất cập, xuất phát từ yêu cầu giáo dục thẩm mĩ đòi hỏi sự tham gia và kết hợp đồng bộ của mọi lực lượng xã hội đặc biệt là vai trò tổ chức quản lí của Nhà trường, gia đình trong việc nâng cao giáo dục thẩm mĩ cho học sinh, nên em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mĩ cho học sinh THPT hiện nay”.
26 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4705 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mĩ cho học sinh THPT hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số biện pháp nhằm nâng cao việc giáo dục thẩm mỹ cho học sinh ở các trường Trung học phổ thông trong Thị xã Thủ Dầu Một - Tỉnh Bình Dương
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chúng ta biết rằng mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông là đào tạo nên những con người phát triển toàn diện, có khả năng thích ứng nhanh, nhạy trước mọi yêu cầu của đất nước đã hội nhập trong giai đoạn hiện tại. Vì vậy vấn đề đặt ra là xã hội đang cần có một lực lượng thế hệ trẻ vừa “hồng”, vừa “chuyên”, thực sự năng động, sáng tạo, tự chủ trong cuộc sống, trong công việc, trong ý thức đóng góp sức lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Để đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng nước nhà trong giai đoạn hiện tại, theo em việc rèn luyện ý thức tự giác cao trong mọi hoạt động ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường là một yếu tố vô cùng quan trọng.
Bác Hồ từng nói “Một năm bắt đầu từ mùa xuân, cuộc đời bắt đầu từ tuổi trẻ”, mà tuổi trẻ của một đời người phần lớn lại gắn với mái trường, ở đó họ nhận được sự quan tâm, dạy dỗ của các nhà giáo dục, tại đây nhân cách của các em sẽ hình thành, định hướng, phát triển. Như vậy có thể nói, nhà trường chính là “chiếc nôi” đầu tiên đưa các em vào đời.
Trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay ở đất nước ta, vấn đề giáo dục toàn diện cho con người càng trở lên cấp thiết đặc biệt là vấn đề giáo dục thẩm mĩ cho thế hệ học sinh. Vì vậy mục tiêu của giáo dục Việt Nam được ghi rất rõ trong Khoản 1 Điều 27 Luật giáo dục 2005: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Trong công tác giáo dục học sinh, nhà trường rất coi trọng nội dung giáo dục thẩm mĩ, coi đó là một bộ phận không thể thiếu được của quá trình giáo dục toàn diện. Con người có trí tuệ thông minh, có sức khỏe cường tráng, nếu thiếu óc thẩm mĩ vẫn không được coi là con người toàn diện trong một xã hội hiện đại. Óc thẩm mĩ có vai trò to lớn trong nhận thức và trong lao động sáng tạo của con người.
Giáo dục thẩm mĩ trở nên hết sức quan trọng vì nó có tác động mạnh đến trí tuệ, đến tình cảm đạo đức, đến quá trình hình thành những nét đẹp trong hành vi, thói quen của học sinh, đến khả năng sáng tạo – một phẩm chất cực kỳ quý báu của con người hiện đại.
Xuất phát từ tầm quan trọng của giáo dục thẩm mĩ và quá trình giáo dục thẩm mĩ đối với sự phát triển toàn diện của học sinh THPT, từ thực trạng công tác giáo dục thẩm mĩ trong các trường phổ thông hiện nay còn nhiều bất cập, xuất phát từ yêu cầu giáo dục thẩm mĩ đòi hỏi sự tham gia và kết hợp đồng bộ của mọi lực lượng xã hội đặc biệt là vai trò tổ chức quản lí của Nhà trường, gia đình trong việc nâng cao giáo dục thẩm mĩ cho học sinh, nên em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mĩ cho học sinh THPT hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Xác định một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quá trình giáo dục thẩm mĩ cho học sinh THPT.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mĩ học sinh THPT.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quá trình giáo dục thẩm mĩ cho học sinh THPT
- Nghiên cứu thực trạng quá trình giáo dục thẩm mĩ cho học sinh THPT.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng gíao dục thẩm mĩ cho học sinh THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nghiên cứu văn bản pháp quy, nội quy, quy chế.
Thực tiễn: quan sát, lấy số liệu…
Chương 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xuất phát từ thực tế cách ăn mặc của học sinh THPT hiện nay, ở Việt Nam đã có một số tác giả nghiên cứu về vấn đề thẩm mĩ và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh nói chung và cho học sinh THPT nói riêng.
- Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mĩ - Trần Túy – NXB Chính trị quốc gia, 2005: Phân tích vai trò của nghệ thuật trong việc phát triển nhân cách, hình thành xúc cảm, thị hiếu, lý tưởng thẩm mĩ lành mạnh, đúng đắn; sự tác động của nghệ thuật với công chúng; nêu một số thực trang, đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò nghệ thuật trong giáo dục thẩm mĩ.
- Đi tìm cái đẹp – Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh - NXB Tp.Hồ Chí Minh, 1984: Một số vấn đề cơ bản về mỹ học Mác – Lê nin.
- Về giáo dục thẩm mĩ ở nước ta hiện nay – Vĩnh Quang Lê – NXB Chính trị quốc gia, 1999: Nêu đặc trưng của giáo dục thẩm mĩ và vấn đề xây dựng con người mới ở nước ta, đặc trưng và vai trò của văn học trong giáo dục thẩm mĩ.
- Giáo dục cái đẹp trong gia đình – Nguyễn Ánh Tuyết – NXB phụ nữ, 1984: Nêu những nét đặc trưng trong sự phát triển tâm lý của trẻ và gợi ý về nội dung giáo dục cái đẹp trong gia đình. Những hiểu biết bước đầu nền giáo dục thẩm mỹ trong gia đình qua từng lứa tuổi từ lúc lọt lòng cho tới khi bước vào tuổi thành niên.
Tuy nhiên nghiên cứu về thực trạng tình hình giáo dục thẩm mĩ trong các trường THPT thị xã TDM Tỉnh Bình Dương thì chưa có tài liệu nào nghiên cứu.
1.2. Khái niệm chung
1.2.1. Khái niệm chung về giáo dục thẩm mĩ
Trong thế giới tự nhiên, xã hội và con người mọi sự vật, hiện tượng phát triển hết sức đa dạng và phức tạp, có những hiện tượng phát triển cân đối, hài hòa, ưa nhìn và có cả những sự kiện lộn xộn, khó chấp nhận.
Hiện tượng, sự kiện của thế giới là cái tồn tại khách quan và phát triển hết sức đa dạng. Con người là chủ thể có ý thức, có khả năng cảm nhận được những cái hay, cái đẹp và cái xấu xí của sự phát triển đa dạng đó. Cái nào đẹp được con người nâng niu, phát triển, cái nào xấu xí bị bác bỏ, bị loại trừ, đó là năng lực thuộc về bản chất của loài người.
Cái đẹp chính là cái thẩm mĩ. Cái đẹp có ở mọi nơi, mọi lúc.
Cái đẹp trong tự nhiên biểu hiện bằng hình dáng, đường nét, màu sắc… Cái đẹp trong xã hội thể hiện trong phương thức giao tiếp, trong lối sống đạo đức, trong trật tự kỉ cương, pháp luật. Cái đẹp trong con người là cái đẹp của nhận thức, tình cảm và được biểu hiện bằng hành vi văn hóa, đạo đức, bằng lời ăn, tiếng nói hàng ngày.
Thẩm mĩ là phạm trù triết học nói về cái đẹp khách quan của tự nhiên, xã hội và con người mà chúng ta đang đề cập tới.
Cái đẹp là cái trung tâm, bên cạnh cái đẹp là cái tốt, cái cao thượng, cái anh hùng. Những khái niệm tương phản là cái xấu, cái thấp hèn, cái hài, cái bi.
Thẩm mĩ là giá trị khách quan vốn có của các đối tượng có trong tự nhiên, xã hội và con người(đối tượng thẩm mĩ) được con người nhận thức, đánh giá, thưởng thức và sáng tạo.
Thẩm mĩ có ý nghĩa rất lớn trong đời sống con người. Nhu cầu thẩm mĩ là một trong những nhu cầu quan trọng của đời sống xã hội. Mỗi con người đều có xu hướng vươn tới cái đẹp hoàn hảo, mong muốn cho cuộc sống của mình ngày càng tốt hơn. Xã hội ngày càng phát triển nhu cầu thẩm mĩ càng cao và con người càng sáng tạo ra nhiều giá trị thẩm mĩ mới.
Cái đẹp thâm nhập vào cuộc sống của con người và tạo nên thị hiếu thẩm mĩ. Thị hiếu thẩm mĩ là sở thích của con người, là cái gout trong thưởng thức và nó lan tỏa từ người này qua người khác, từ nơi này đến nơi kia tạo thành một làn sóng thị hiếu: Thị hiếu thời trang, thị hiếu nghệ thuật, âm nhạc, sân khấu, du lịch và thị hiếu tiêu dùng… Thị hiếu thay đổi theo thời gian, không gian, thị hiếu có tính lịch sử.
Cuộc sống là sáng tạo, “mỗi con người là một nghệ sỹ” luôn tạo ra giá trị thẩm mĩ cho mình và cho xã hội. Đó là một quy luật.
Trong công tác giáo dục học sinh, nhà trường rất coi trọng nội dung giáo dục thẩm mĩ, coi đó là một bộ phận không thể thiếu được của quá trình giáo dục toàn diện. Con người có trí tuệ thông minh, có sức khỏe cường tráng, nếu thiếu óc thẩm mĩ vẫn không được coi là con người toàn diện trong một xã hội hiện đại. Óc thẩm mĩ có vai trò to lớn trong nhận thức và trong lao động sáng tạo của con người.
Giáo dục thẩm mĩ trở nên hết sức quan trọng vì nó có tác động mạnh đến trí tuệ, đến tình cảm đạo đức, đến quá trình hình thành những nét đẹp trong hành vi, thói quen của học sinh, đến khả năng sáng tạo – một phẩm chất cực kỳ quý báu của con người hiện đại.
1.2.2. Nội dung của giáo dục thẩm mĩ
Giáo dục thẩm mĩ là quá trình hình thành cho học sinh năng lực nhận thức, thưởng ngoạn, đánh giá, sáng tạo và hành động theo cái đẹp.
Trong phạm vi giáo dục ở trường trung học phổ thông, giáo dục thẩm mĩ có các nhiệm vụ sau đây:
+ Bồi dưỡng cho học sinh năng lực tri giác, cảm thụ, thưởng thức cái đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật.
+ Bồi dưỡng cho học sinh năng lực đánh giá cái đẹp cái đẹp trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật, nhận biết cái chân, thiện mỹ trong đời sống con người.
+ Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ làm sao cho phù hợp với các giá trị văn hóa dân tộc và văn minh của thời đại.
+ Bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống hằng ngày, trong lao động, học tập và sinh hoạt tập thể: cái đẹp vật chất, cái đẹp tinh thần, cái đẹp nghệ thuật.
+ Làm cho mỗi học sinh luôn hướng tới cái đẹp và hành động theo cái đẹp, quan trọng nhất là tu dưỡng đạo đức tạo cái đẹp trong phẩm giá nhân cách.
Như vậy, giáo dục thẩm mĩ có liên quan trực tiếp đến giáo dục văn hóa, thẩm mĩ là một bộ phận của văn hóa, trong văn hóa có thẩm mĩ, văn hóa lấy thẩm mĩ làm trung tâm. Giáo dục văn hóa và giáo dục thẩm mĩ gắn liền với nhau như hình với bóng không thể tách rời.
Mục đích của giáo dục văn hóa – thẩm mĩ cho học sinh là giúp họ nâng cao trình độ nhận thức, cảm thụ, thưởng thức và sáng tạo cái đẹp vật chất và tinh thần, hình thành thói quen, nếp sống, hành vi văn minh trong giao tiếp xã hội. Như vậy, giáo dục văn hóa – thẩm mĩ phục vụ cho mục tiêu phát triển văn hóa cá nhân, xã hội và công đồng.
Giáo dục văn hóa – thẩm mĩ ở trường THPT được thực hiện thông qua các con đường cơ bản sau đây:
+ Thông qua dạy và học các môn khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Các môn học này giúp học sinh nhận thức được những khái niệm cơ bản về văn hóa – thẩm mĩ, nhận ra những giá trị đích thực của văn hóa, văn minh nhân loại trên cơ sở đó có ý thức đối với những truyền thống văn hóa và hình thành thói quen hành vi văn hóa.
+ Thông qua xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhà trường và xã hội.
- Môi trường là nơi sống và hoạt động của con người, môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của cá nhân.
- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là xây dựng nếp sống mọi người chăm lo đến nhau. Cha mẹ, thầy cô giáo quan tâm đến cuộc sống, học tập của các em và các mối quan hệ xã hội.
+ Thông qua giáo dục nghệ thuật: Nghệ thuật là biểu hiện cao nhất của các quan hệ thẩm mĩ trong đời sống xã hội. Nghệ thuật có hai bộ phận quan trọng là đối tượng thẩm mĩ và chủ thể thẩm mĩ. Đối tượng thẩm mĩ là hiện thực, chủ thể thẩm mĩ là nghệ sĩ. Nghệ thuật là quá trình chủ thể hóa đối tượng thẩm mĩ và khách thể hóa tình cảm, thẩm mĩ.
- Giáo dục nghệ thuật trong nhà trường được thực hiện thông qua giảng dạy các bộ môn văn học, nghệ thuật: thơ ca, âm nhạc, hội họa…
- Giáo dục nghệ thuật thông qua tổ chức các cuộc thi văn nghệ; hội thi học sinh thanh lịch, thời trang học đường, nữ công, gia chánh, khéo tay hay làm…
- Giáo dục nghệ thuật thông qua hệ thống tin đại chúng, các chương trình “Trò chơi âm nhạc”, “Nốt nhạc vui”, “Ai là triệu phú”, “Hành trình văn hóa”, “Rung chuông vàng”, “Đấu trường 100”… trên đài truyền hình có ý nghĩa giáo dục to lớn.
+ Thông qua tiếp xúc với thiên nhiên: Ở trường THPT, giáo dục văn hóa – thẩm mĩ có thể được thực hiện thông qua các hoạt động du lịch, tham quan, cắm trại tiếp xúc với thiên nhiên, đây là những hình thức rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi của học sinh.
Chương 2:
THỰC TRẠNG VỀ GIÁO DỤC CÁCH ĂN MẶC CHO HỌC SINH Ở MỘT SỐ TRƯỜNG THPT
2.1. Khái quát về tình hình giáo dục cách ăn cho học sinh phổ thông hiện nay
Qua hơn 20 năm đổi mới của nước, việc thâu nhận và tiếp biến các tinh hoa văn hóa, văn minh nhân loại trở nên sôi nổi và phổ biến hơn, hệ giá trị dân tộc đã được bổ sung các giá trị mới, bao gồm cái đẹp, cái đúng, cái tốt, cái có ích, cái cao cả, cái hiện đại, những hình tượng nghệ thuật mới làm cho đời sống tinh thần của nhân dân thêm phong phú, đa dạng hơn. Sự tác động đó vào giới trẻ là biểu hiện rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất. Sự xâm nhập của các làn sóng văn hóa mới cũng làm cho văn hóa truyền thống bộc lộ những nhược điểm, những mặt lạc hậu so với xu thế đương đại, đòi hỏi nước ta phải sớm nhận ra để khắc phục. Trong giáo dục thẩm mĩ, cách đây 10 năm Nghị quyết TW 5 khoá VIII của Đảng về “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã chỉ rõ những tồn tại hạn chế: “Việc giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, học sinh chưa được coi trọng”.
Trong giáo dục thẩm mĩ thì giáo dục Cái Đẹp giữ vị trí then chốt. Cái đẹp được hiểu là những giá trị thẩm mĩ, xã hội khách quan của các sự vật hiện tượng toàn vẹn, cụ thể, cảm tính trong hiện thực, được con người thụ cảm cảm tính và đánh giá về phương diện thẩm mĩ. Cái đẹp có tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại, do đó cũng có cái đẹp giai cấp, cái đẹp dân tộc và cái đẹp nhân loại. Giáo dục cái đẹp luôn hướng tới mục tiêu phát triển các cảm xúc, thị hiếu thẩm mĩ và lý tưởng thẩm mĩ cao đẹp. Nhận diện và xác định rõ cái đẹp sẽ tạo ra cơ sở vững chắc chống lại nguy cơ khủng hoảng giá trị và niềm tin.
Cái đẹp nhân loại bao trùm lên các giá trị của con người. Cái đẹp nhân loại mà chúng ta cần chiếm lĩnh là các giá trị thẩm mĩ đã được cộng đồng thế giới thừa nhận, mong muốn, quý trọng, giữ gìn và chiếm lĩnh, đó là cái đẹp mang trong nó các chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng của nhân loại. Phải giúp thanh thiếu niên (TTN) nhận diện được cái đẹp nhân loại để họ có thể thưởng thức, đánh giá, lựa chọn, tiếp thu, biểu hiện, biến đổi và sáng tạo đúng hướng, góp phần làm giàu thêm, tiên tiến thêm nền văn hoá dân tộc.
Giáo dục thẩm mĩ cho TTN cần nhất là giáo dục qua thực tiễn và qua lao động, đó là quá trình hình thành nhận thức thẩm mĩ đúng đắn và tự nhiên.
Chính vì điều đó, trong các trường phổ thông hiện nay khi quy định về nền nếp học sinh đều có hẳn một phần ghi cụ thể về cách ăn mặc của học sinh. Cụ thể như:
- Ở trường THPT Nguyễn Đình Chiểu (Bình Dương), ngay trong phần đầu về quy định nền nếp đã ghi rõ:
QUY ĐỊNH VỀ ĐỒNG PHỤC:
1.- Học sinh nam: Mặc áo trắng mang phù hiệu trường có thêu tên trên ngực trái, áo bỏ trong quần, quần màu xanh dương hoặc đen, mang giày bata đến trường. Học sinh không được mặc quần jean, kaki đến lớp; đầu tóc phải gọn gàng tuyệt đối không được nhuộm.
2.- Học sinh nữ: Mặc áo dài trắng có cổ, bên trong có áo lá, quần trắng hoặc đen và may phù hiệu trường có thêu tên trên ngực trái, mang giày hoặc dép có quai hậu (không mang guốc).
Lưu ý: Học sinh đến trường ngoài giờ học, sinh hoạt ngoại khóa : Phải đảm bảo quy định đồng phục, thuận tiện. Trong giờ học TDTT học sinh phải mặc đồng phục thống nhất theo quy định, mang giày bata.
- Ở trường THPT Võ Minh Đức (Bình Dương) trong nội quy học sinh quy định:
Haønh vi, ngoân ngöõ öùng xöû, trang phuïc (theo Ñieàu 40 Ñieàu leä tröôøng trung hoïc):
- Haønh vi, ngoân ngöõ öùng xöû cuûa hoïc sinh phaûi coù vaên hoaù, phuø hôïp vôùi ñaïo ñöùc vaø loái soáng cuûa löùa tuoåi hoïc sinh trung hoïc;
- Khoâng ñöïôc boâi son, ñaùnh phaán; sôn moùng tay, chaân; nhuoäm toùc, ñeo ñoà trang söùc ñeå trang ñieåm.
- Trang phuïc cuûa hoïc sinh phaûi saïch seõ, goïn gaøng, thích hôïp vôùi ñoä tuoåi, thuaän tieän cho vieäc hoïc taäp vaø sinh hoaït ôû tröôøng;
Nam: quaàn taây, aùo sô mi boû vaøo quaàn, mang deùp coù quai haäu.
Nöõ : aùo daøi traéng, quaàn traéng, mang giaày hoaëc deùp coù quai haäu.
Và ngày từ đầu năm học tất cả các trường đều sinh hoạt với học sinh về nội quy, quy định nề nếp trong các buổi sinh hoạt chủ nhiệm, sinh hoạt dưới cờ cũng như trong các buổi họp cha mẹ PHHS . Đồng thời trong các giờ sinh hoạt lớp, giáo dục ngoài giờ lên lớp, GVCN cũng thường xuyên nhắc nhỡ các em về trang phục khi đi học cũng như đi sinh hoạt ngoại khóa v.v…
2.2. Thực trạng về giáo dục cách ăn mặc hiện nay:
Tuy nhiên mặc dù đã có quy định về nề nếp, giáo viên và Đoàn thanh niên thường xuyên giáo dục, nhắc nhỡ các em trong các buổi sinh hoạt lớp, sinh hoạt đoàn, mặc dù đại đa số các em đều chấp hành khá tốt nội qui của nhà trường. Đặc biệt là trong những năm gần đây, việc ăn mặc của học sinh trong các giờ học, giờ ngoại khóa trở thành vấn đề đáng quan tâm trong nhà trường , và điều đáng lo ngại là nhu cầu về thẩm mỹ - cái đẹp trong ăn mặc - của học sinh đang có xu thế xuống cấp. Vấn đề đặt ra ở đây là vì sao cách ăn mặc của học sinh càng ngày lại càng khó nhìn như thế, trong khi môn giáo dục công dân, giáo dục đạo đức, giáo dục mỹ thuật vẫn được dạy liên tục từ tiểu học đến các bậc học cao hơn? Chỉ riêng cách ăn mặc của các nữ sinh ngày nay đang khiến không ít giáo viên phải "nhức nhối" khi chứng kiến những kiểu biến tướng của các bộ đồng phục khi các em đi học các giờ ngoại khóa. Cùng là áo trắng, quần sẫm màu nhưng nhà trường khó có thể kiểm soát được "kiểu dáng" của những bộ đồng phục này.
Theo em Nguyễn Thị Thu Hà, học sinh trường Lớp 12A1 Trường THPT Võ Minh Đức TX TDM (Bình Dương), kiểu quần cạp trễ, áo ngắn vẫn là xu hướng thời trang được đa số các nữ sinh chọn làm phong cách cho những bộ đồng phục khi đi học các giờ ngoại khóa của mình. Bộ đồng phục này cũng không mấy khác biệt so với những bộ đồng phục thông thường khi những nữ sinh này đi lại.
Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn sẽ được thấy rõ nếu nữ sinh cử động mạnh hay chỉ đơn giản là ngồi xuống ghế trong lớp. "Tôi không thể không quay mặt đi khi phải nhìn thấy những chiếc cạp trễ hết mức của các bạn nữ sinh trong lớp" - một giáo viên trường THPT Nguyễn Đình Chiểu (Bình Dương) bức xúc.
"Nhưng thử hỏi bạn học sinh nam ngồi sát bên cạnh bạn nữ đó sẽ nghĩ như thế nào?" - cô giáo đặt câu hỏi. Giới tính đang là vấn đề rất nhạy cảm trong trường học nhưng làm sao yêu cầu học sinh phải trong sáng khi mà ngồi sát bên mình là một bạn nữ đang "khoe" cơ thể cũng như nội y của mình một cách chủ động như vậy?
Và hàng tuần trong các buổi sinh hoạt dưới cờ giám thị, Đoàn TN nhà trường vẫn phải thường xuyên đọc tên và nhắc nhỡ những em học sinh vi phạm nề nếp, tác phong đặc biệt là vi phạm về ăn mặc không đúng đồng phục theo quy định nhà trường. Giám thị cũng đã nhiều lần mời phụ huynh các em vi phạm vào trường để nhắc nhỡ về vấn đề này.Và cũng chính những em vi phạm về ăn mặc trong nhà trường là những em thường xuyên vi phạm về đạo đức, tác phong.
Viện Nghiên cứu và Phát triển giáo dục Việt Nam dẫn chứng: càng ở cấp học cao, biểu hiện vi phạm đạo đức của HS càng đáng lo ngại. Nếu như ở cấp tiểu học, có 22% HS từng nói dối cha mẹ, thì lên THCS, tỷ lệ này là 50%, và khi học THPT, con số ấy lên tới 64%; tỷ lệ HS THCS không chấp hành Luật Giao thông là 35%, nhưng lên cấp THPT thì số HS phạm lỗi tăng gấp đôi..., 68% HS mê game, chat, 46,6% ảnh hưởng từ phim: thích quen "hoàng tử" trong phim, có trang phục giống trong phim, thích chơi đô vật kiểu Mỹ…, 38,8% cho biết thường xuyên chửi thề, nói tục; 53,6% thỉnh thoảng nói tục, 32,2% thường xuyên vô lễ với thầy cô. Nhiều HS chỉ chào thầy cô trong trường, còn ra đường thì... không quen biết. Và những em này thường là những em có cách ăn mặc không đúng với nề nếp quy định của nhà trường.
Đồng thời qua kết quả khảo sát việc vi phạm của HS về ăn mặc ở một số trường THPT ở địa bàn Thị Xã Thủ Dầu Một Tỉnh Bình Dương trong 3 tháng 9,10,11 năm học 2008 – 2009, ta nhận thấy: vì các em lớp 10 mới vào trường còn bở ngỡ nên các em chấp hành tốt quy định và ít vi phạm hơn học sinh lớp 11, 12. Đến tháng 10 khi nhà trường bắt đầu tăng cường kiểm tra hai khối 11, 12 thì các em khối 10 bắt đầu vi phạm vì các em đã bắt đầu quen với môi trường mới và một ph