Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội

Đảng và Nhà nước nước ta nhấn mạnh "nhiệm vụ ổn định và phát triển nền kinh tế của nước ta tiến hành nhanh hay chậm điều đó phụ thuộc vào việc nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân nói chung và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì việc đầu tiên và quan trọng nhất là phải tìm biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp của mình. Một trong những công cụ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh "Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội". Để quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp cần phải nắm bắt được tình hình kinh doanh của mình tại mọi thời điểm của chu kỳ sản xuất để thấy được mặt tích cực để phát huy, thấy được mặt tiêu cực để có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hoàn thiện các chỉ tiêu định mức tiên tiến và có kế hoạch sản xuất kinh doanh cho chu kỳ sau. Tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp, nhằm phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng, đồng thời đưa ra những quan điểm, phương hướng và biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn bao gồm ba phần chính: Phần I: Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp cơ bản và lâu dài góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phần II: Tình hình chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội. Phần III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo Đinh Đăng Quang người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này. Tôi chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ công nhân viên Công Ty Rượu Hà Nội nói chung và các cô chú trong phòng tổng hợp nói riêng đã nhiệt tình giúp đỡ hoàn thành tốt chuên đề thực tập tốt ngiệp. Vì thời gian và trình độ còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy cô bạn bè cũng như các cô chú trong Công ty Rượu Hà Nội để tôi có thể đi sâu nghiên cứu đề tài hơn nữa.

doc93 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu ======================= Đảng và Nhà nước nước ta nhấn mạnh "nhiệm vụ ổn định và phát triển nền kinh tế của nước ta tiến hành nhanh hay chậm điều đó phụ thuộc vào việc nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân nói chung và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì việc đầu tiên và quan trọng nhất là phải tìm biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp của mình. Một trong những công cụ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh "Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội". Để quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp cần phải nắm bắt được tình hình kinh doanh của mình tại mọi thời điểm của chu kỳ sản xuất để thấy được mặt tích cực để phát huy, thấy được mặt tiêu cực để có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hoàn thiện các chỉ tiêu định mức tiên tiến và có kế hoạch sản xuất kinh doanh cho chu kỳ sau. Tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp, nhằm phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng, đồng thời đưa ra những quan điểm, phương hướng và biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn bao gồm ba phần chính: Phần I: Nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp cơ bản và lâu dài góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phần II: Tình hình chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội. Phần III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Rượu Hà Nội. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo Đinh Đăng Quang người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này. Tôi chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ công nhân viên Công Ty Rượu Hà Nội nói chung và các cô chú trong phòng tổng hợp nói riêng đã nhiệt tình giúp đỡ hoàn thành tốt chuên đề thực tập tốt ngiệp. Vì thời gian và trình độ còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy cô bạn bè cũng như các cô chú trong Công ty Rượu Hà Nội để tôi có thể đi sâu nghiên cứu đề tài hơn nữa. CHƯƠNG I NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM LÀ BIỆN PHÁP CƠ BẢN VÀ LÂU DÀI GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP ====================== 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt, chất lượng sản phẩm và dịch vụ là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, quản lý chất lựơng đã được coi là vũ khí cơ bản giúp các doanh nghiệp đáp ứng thích hơn các yêu cầu của khách hàng và nâng cao hiệu quả của quản lý. Vì vậy vấn đề chất lượng ngày nay đang là mối quan tâm hàng đầu, là mục tiêu mang tầm chiến lược quan trọng trong chính sách, kế hoạch của doanh nghiệp và chương trình phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. 1.1.1 Khái niệm chất lượng sản phẩm (CLSP) Chất lượng sản phẩm là một phạm trù rất phức tạp phản ánh một cách tổng hợp các nội dung kinh tế, xã hội và kỹ thuật liên quan đến rÊt nhiều đối tượng khác nhau trong quá trình sản xuất kimh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Về mặt bản chất, chất lượng sản phẩm đựơc coi là giá trị sử dụng của hàng hoá. Nhưng đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, mức độ xem xét trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội khác nhau và nhằm các mục tiêu khác nhau người ta đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm. Theo quan điểm của C.MAX thì chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu hiện giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm phải làm nên tính hữu Ých của sản phẩm đó và nó chính là chất sản phẩm. Theo nghĩa của từ điển tiếng Việt về chất lượng: chất lượng là mặt đối lập của của số lượng. Định nghĩa này chỉ mới nói nên một phần của một sự vật, hiện tuợng nào cũng có hai mặt chất lượng và số lượng. Theo quan điểm của hệ thống các nước XHCN trước thì chất lượng sản phẩm là tổng hợp các đặc tính kinh tế kĩ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đáp ứng những nhu cầu định trước cho nã trong nhưng điều kiện xác định về kinh tế kĩ thuật. Về mặt kinh tế, quan điểm này phản ánh đúng bản chất của chất lượng sản phẩm song mặt cơ bản và quan trọng là mức độ sản phẩm thoả mãn nhiều hay Ýt nhu cầu của khách hàng. Với quan điểm trên, chất lượng sản phẩm được xem xét một cách biệt lập, tách rời với thị trường và làm cho chất lượng sản phẩm không được sự gắn liền với nhu cầu, sự vận động và biến đổi nhu cầu thị trường, với hiệu quả kinh tế và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm được nhìn nhận ở dạng tĩnh làm cho nó không được cải tiến kịp thời theo nhu cầu, khả năng tiêu thụ kém. Bước sang cơ chế thị trường khi nhu cầu xã hội ngày một tăng, yêu cầu đối với chất lượng sản phẩm cũng được tăng theo thì quan điểm về chất lượng sản phẩm cung thay đổi phù hợp với thực tiễn. Chất lượng sản phẩm được nhìn nhận một cách linh hoạt hơn, gắn bó chặt chẽ hơn với nhu cầu người tiêu dùng và chiến lược cạnh tranh của doanh ngiệp. Chất lượng sản phẩm được quyết định trên cơ sở nhận thức của khách hàng như "Chất lượng sản phẩm là mức độ sản phẩm Êy đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng", " Chất lượng sản phẩm là cái khách hàng phải trả đúng với cái mà nhận được", hoặc " Chất lượng sản phẩm là các chỉ tiêu mà các đặc trưng của nó thể hiện sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện xác định phù hợp với công dụng mà người tiêu dùng mong muốn”. Theo các định nghĩa này, chất lượng sản phẩm được nhìn từ bên ngoài theo sự đánh giá của khách hàng mà bỏ qua những đặc tính nội tại vốn có của sản phẩm. Để phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên, tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO (International Organozation for Standardization) đưa ra khái niệm về chất lượng sản phẩm như sau:" Chất lượng sản phẩm là tập hợp những tính chất và đặc trưng về thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu hoặc tiềm Èn". Có thể nói đây là một quan niệm rất hiện đại về chất lượng sản phẩm. Nó phản ánh sự kết hợp giữa những đặc tính nội tại của sản phẩm với nhu cầu bên ngoài thị trường. Chất lượng sản phẩm không bao gồm tất cả các thuộc tính của một sản phẩm mà chỉ bao gồm những thuộc tính làm cho sản phẩm có khả năng thoả mãn những nhu cầu định trước hoặc còn tiềm Èn. Tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong chất lượng sản phẩm không phải là một phép cộng đơn thuần mà trong đó các thuộc tính tác động tương hỗ lẫn nhau. Sù thay đổi trong thành phần, cấu tạo mối quan hệ trong tập hợp các thuộc tính sẽ tạo ra các chất lượng khác nhau. Dựa vào khái niệm của ISO, cục đo đường chất lượng nhà nước Việt Nam đưa ra khái niệm: Chất lượng sản phẩm của một sản phẩm nào đó là tổng hợp của tất cả các tính chất biểu thị giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của xã hội trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, đảm bảo yêu cầu của người sử dụng nhưng cung đảm bảo các tiêu chuẩn thiết kế và khả năng sản xuất của từng nước. 1.1.2 Phân loại chất lượng sản phẩm và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm 1.1.2.1 Phân loại chất lượng sản phẩm: a. Phân loại theo mục đích, công dụng của sản phẩm: Theo cách phân loại này, chất lượng sản phẩm được chia thành 4 loại: + Chất lượng thị trường: Là chất lượng đảm bảo thoả mãn nhu cầu thị trường mong đợi của người tiêu dùng. + Chất lượng thành phần: Là chất lượng đảm bảo thoả mãn nhu cầu của một hoặc một số người nhất định. + Chất lượng phù hợp: Là chất lượng đảm bảo theo đúng thiết kế hay tiêu chuẩn hoá quy định. + Chất lưọng thị hiếu: Là chất lượng phù hợp với ý thích, sở trường tâm lý của người tiêu dùng. b. Phân loại theo hệ thống chất lượng ISO 9000: Theo phân loại này chất lượng sản phẩm được chia thành 5 loại: +Chất lượng thiết kế: Là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng của sản phẩm được phác thảo qua văn bản trên cơ sở ngiên cứu nhu cầu thực tế, các điểm của sản xuất- tiêu dùng, đồng thời so sánh với chỉ tiêu chất lượng các mặt hàng tương tự cuả nhiều hãng, nhiều công ty trong và ngoài nước. + Chất lượng tiêu chuẩn: Là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng được cấp có thẩm quền phê chuẩn. Dựa trên cơ sở nghiên cứu chất lượng thiết kế, các cơ quan nhà nước, doanh ngiệp điều chỉnh, xét duyệt những chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm hàng hoá, chất lượng tiêu chuẩn có nhiều loại: - Tiêu chuẩn quốc tế, khu vực - Tiêu chuẩn quốc gia - Tiêu chuẩn ngành - Tiêu chuẩn doanh nghiệp + Chất lượng thực tế: Là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm thực tế đạt được do các yếu tố chi phối, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, phương pháp quản lý .. .. + Chất lượng cho phép: Là mức độ cho phép về độ lệch các chỉ tiêu chất lượng về sản phẩm giữa chất lượng thực và chất lượng chuẩn. Chất lượng cho phép của sản phẩm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế kĩ thuật, trình độ làm nghề của công nhân, phương pháp quản lý của doanh nghiệp. + Chất lượng tối ưu: Là chất lượng mà tại đó lợi nhuận đạt được do nâng cao chất lượng sản phẩm cao hơn sự tăng lên do chi phí cần thiết để đạt mức chất lượng đó. Sản phẩm hàng hoá đạt chất lượng tối ưu là các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng, có khả năng cạnh tranh với nhiều hãng trên thị trường, sức tiêu thụ nhanh và đạt hiêu quả cao. Phấn đấu đưa chất lượng sản phẩm đạt mức chất lượng tối ưu là một trong những mục đích quan trọng của quản lý doanh nghiệp nói riêng, và quản lý kinh tế nói chung. 1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá sản phẩm Chất lượng sản phẩm được đánh giá qua một một hệ thống các chỉ tiêu cụ thể. Các chỉ tiêu chất lượng này là các thông số kỹ thuật, các đặc tính riêng có phản ánh tính hữu Ých của sản phẩm. a. Nhóm chỉ tiêu có thể so sánh được: Là chỉ tiêu có thể tính toán được dựa trên cơ sở các số liệu điều tra, thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Nhóm chỉ tiêu chất lượng này bao gồm: + Chỉ tiêu tỷ lệ sản phẩm sai hỏng: Chỉ tiêu này dùng để đánh giá tình hình chất lượng sản phẩm trong sản suất kinh doanh - Dùng thước đo hiện vật để tính: Số lượng sản phẩm hỏng Tỷ lệ sai háng = x 100 % Tổng số lượng sản phẩm - Dùng thước đo giá trị để tính: Chí phí về sản phẩm hỏng % Giá trị sp sai háng = x 100 % Tổng chi phí toàn bộ sản phẩm hàng hoá Độ lệch chuẩn = Trong đó: X: là chất lượng sản phẩm tiêu chuẩn (lấy làm mẫu để so sánh) Xi: Là chất lượng sản phẩm đem ra để so sánh n: Số lượng sản phẩm đem so sánh Số sản phẩm đạt chất lượng Tỷ lệ đạt chất lượng = x 100% Tổng số sản phẩm được kiểm tra + Chỉ tiêu hệ số phẩm cấp bình quân: Chỉ tiêu này dùng để phân tích thứ hạng của chất lượng sản phẩm. Công thức xác định: H = b. Nhóm chỉ tiêu không thể so sánh được: Là chỉ tiêu chất lượng không thể định lượng được: Nhóm chỉ tiêu này áp dụng cho từng loại sản phẩm thích hợp bao gồm các chỉ tiêu sau: +Chỉ tiêu công dụng: Đặc trưng cho tính chất sản phẩm luôn giữ được khă năng làm việc trong khoảng thời gian nhất định. +Chỉ tiêu độ tin cậy: Đặc trưng cho tính chất sản phẩm liên tục gữ được khẳ năng làm việc trong thời gian nhất định. + Chi tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ người và sản phẩm bao gồm các chỉ tiêu: vệ sinh, sinh lý của con người liên quan tới quy trình sản xuất và sinh hoạt. + Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho sự truyền cảm hấp dẫn của hình thức sự hài hoà của kết cấu sản phẩm. + Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quá trùnh chế tạo, bảo đảm tiết kiệm lớn nhất các chi phí. + Chỉ tiêu thống nhất hoá: Đặc trưng cho tính chất hợp lý của sản phẩm. + Chỉ tiêu dễ vận chuyển: Đặc trưng cho tình thích ứng của sản phẩmđối với việc vận chuyển. + Chỉ tiêu đối với việc phát minh sáng chế: Đặc trựng cho khả nhăng giữ bản quyền. + Chỉ tiêu về tuổi thọ:Đặc trưng về thời gian sử dụng của sản phẩm + Chỉ tiêu về chi phí, gía cả: Đặc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo nên sản phẩm. Hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng sản phẩm không tồn tại độc lập, tách rời mà chúng có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Đối với mỗi sản phẩm khác nhau, các chỉ tiêu chất lượng có vai trò và ý nghĩa khác nhau nhưng nghìn chung một sản phẩm được coi là có chất lượng caokhi nó thoã mãn một hệ thống các chỉ tiêu ràng buộc.Do đó tuỳ theo từng loại sản phẩm các doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình những chỉ tiêu phù hợp vừa đảm bảo công tác quản lý chất lượng sản phẩm có hiệu quả, vừa đảm bảo sản phẩm có sắc thái riêng biệt với sản phẩm đồng loại khác trên thị trường. 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là vấn đề tổng hợp, là kết quả một quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng và cả sau khi tiêu dùng nữa. Do đó có thể nói nó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, điều kiện liên quan trong suốt chu kỳ sống của nó. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến chất lượng sản phẩm lại khác nhau. Theo quan điểm quản lý và thực tiễn sản xuất kinh doanh, có thể thấy chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào các nhóm yếu tè sau: 1.1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan a. Nhu cầu thị trường Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình sản xuất, tạo lực kéo định hướng cho việc cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu tính chất, đặc điểm và những xu hướng vận động của nhu cầu thị trường tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Việc sản xuất cái gì ? Khối lượng bao nhiêu? Bán cho ai ? ở đâu? đều xuất phát từ nhu cầu thực tế của thị trường để từ đó doanh nghiệp hoạch định cho mình chiến lược, chính sách sản phẩm và kế hoạch sản xuất cho phù hợp. Do đó doanh nghiệp cần tiến hành nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích môi trường kinh tế xã hội, nhanh chóng, xác định chính xác nhận thức của khách hàng cũng như thói quen truyền thống, phong tục, tập quán, văn hoá, lối sống, mục đích sử dụng sản phẩm và khả năng thanh toán của họ. Hơn nữa, khi đời sống xã hội tăng nên, nhu cầu thị trường không ngừng biến đổi, người ta không chỉ quan tâm đến số lượng, chất lượng mà cả giá trị thẩm mỹ của sản phẩm. Bởi vậy các doanh nghiệp phải quan tâm và đầu tư vào lĩnh vực này. b. Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ Trong thời đaị ngày nay, không có sự tiến bộ kinh tế xã hội nào không gắn với sự tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Bắt đầu từ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất, chủng loại chất lượng sản phẩm không ngừng thay đổi với một thái độ hết sức nhanh.Tiến bộ khoa học công nghệ có tác dụng như lực đẩy tạo khẳ năng to lớn đưa chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên.Nhờ những tiến bộ khoa học công nghệ mà có thể tạo ra và thay thế các nguyên liệu mới tốt hơn, rẻ hơn, hình thành phương án quản lý tiên tiến góp phần giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. c. Cơ chế, chính sách quản lý Các doanh nghiệp không thể tồn tại mà cách biệt lập mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tình hình chính trị xã hội và cơ chế chính sách quản lý của mỗi nước. Thông qua cơ chế và chính sách vĩ mô hiện nay như hình thành toàn diện đồng bộ các thị trường của yếu tố đầu vào, bao gồm thị trường vốn, thị trường tiêu thụ sản xuất, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị trường sản phẩm dịch vụ, tạo môi trường ổn định về chính trị, xã hội tâm lý, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao tính tự chủ, sáng tạo trong việc cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình. Đồng thời thông qua các công cụ thuế, luật pháp để điều tiết sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh.Về quản lý kinh tế, chức năng kiểm tra, kiểm soát là một trong những chức năng quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua kiểm tra, kiểm soát có thể phát hiện những sai lệch để kịp thời hoàn thiện và định hướng cho các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. d. Nhân tố kinh tế- văn hoá- xã hội: Chất lượng sản phẩm là sự đáp ứng, thảo mãn những nhu cầu xác định trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, do đó quan niệm về tính hữu Ých mà sản phẩm mang lại cho mỗi một người, mỗi một dân tộc cũng khác nhau. Trình độ văn hoá khác nhau, những đòi hỏi về chất lượng cũng không giống nhau...chính vì vậy mà các doanh nghiệp nước ngoài khi xâm nhập thị trường, việc mà họ quan tâm hàng đầu là tìm hiểu văn hoá, con người, mức sống, truyền thống dân tộc nơi mà họ sẽ đến làm ăn. e. Điều kiện tự nhiên: - Khí hậu: Sù thay đổi về khí hậu có ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm cũng như nguyên vật liệu dự trữ ở các kho tàng bến bãi. - Bức xạ mặt trời: Anh hưởng của tia hồng ngoại, tử ngoại trong bức xạ mặt trời làm cho sản phẩm có thể bạc màu, thay đổi mùi vị. - Mưa giã: Có thể làm cho sản phẩm bị ngập nước, tăng độ Èm mốc, thời gian sử dụng kém hiệu quả dẫn đến sản phẩm bị ứ đọng, không có khả năng tiêu thụ. 1.4. Nhóm nhân tố chủ quan: a. Trình độ lao động trong doanh nghiệp: Đây là nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng. Dù trình độ công nghệ có hiện đại tiên tiến tới đâu, nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động tới chất lượng các hoạt động, chất lượng sản phẩm và các dịch vụ. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức, trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp đều có tác động tực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Quan tâm đến đầu tư phát triển không ngừng nâng chất lượng nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các doanh nghiệp. Đó cũng là con đường chất lượng nhất nâng cao khả năng cạnh tranh về chất lượng của mỗi quốc gia. d. Trình độ thiết bị- Công nghệ của mỗi doanh nghiệp Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu, tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, đặc biệt là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây truyền và tính chất sản xuất hàng loạt. Trình độ của các doanh nghiệp không thể tách rời trình độ công nghệ trên thế giới. Muốn sản phẩm có chất lượng đủ khă năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường thế giới, mỗi doanh nghiệp cần có chính sách công nghệ phù hợp đồng thời khai thác huy động tối đa công nghệ nhằm tạo sản phẩm có chất lượng. c. Vật tư, nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu của doanh nghiệp. Chất lượng nguyên vật liệu là một trong những yếu tố hình thành chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng nguyên vật liệu đưa vào sản xuất. Nếu chất lượng nguyên vật liệu kém, cung cấp không đúng số lượng, chủng loại sẽ làm cho quá trình sản xuất bị gián đoạn, ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Ngược lại, nếu nguyên vật liệu đúng đủ, kịp thời về số lượng, chủng loại theo yêu cầu tiêu chuẩn đã định ra thì sẽ đảm bảo chất lượng tốt. Các doanh nghiệp cần tạo cho mình những cơ sở cung cấp nguyên vật liệu ổn định, có chất lượng tốt, đảm bảo đúng thời gian tín độ và đủ số lượng, chủng loại đồng thời trước khi mua cần kiểm tra chặt chẽ về cả mặt lượng lẫn mặt chất của nguyên liệu, phải có chế độ bảo quản thích hợp nhất là những nghành có nguyên liệu lớn, nhằm giảm ảnh hưởng có hại tới môi trường. d. Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Các nhân tố tổ chức như: Tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, tổ chức kho hàng, bảo quản nguyên vật liệu, tổ chức, kiểm tra kỹ thuật... cũng là nhân tố ảnh hưởngtới chất lượng sản phẩm. Trong đó trình độ quản lý nói chung và trình độ quản lý chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đảy mạnh tốc độ cải tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Các chuyên gia quản lý chất lượng đồng tình cho rằng, trong thực tế có hơn 80% những vấn đề về chất lượng là do quản lý gây ra. Vì vậy khi nói đến quản lý chất lượng
Tài liệu liên quan