Trong mấy thập kỷ gần đây, nhất là từ thập kỷ 80, Thế giới có nhiều biến đổi đáng kể trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Nhân loại đang bước vào giai đoạn sôi động của Cách mạng công nghệ, một cuộc Cách mạng mà sự tác động của nó làm biến đổi sâu sắc trên tất cả các mặt của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, xã hội ở hầu hết các nước trên Thế giới
31 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu
Trong mấy thập kỷ gần đây, nhất là từ thập kỷ 80, Thế giới có nhiều biến đổi đáng kể trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Nhân loại đang bước vào giai đoạn sôi động của Cách mạng công nghệ, một cuộc Cách mạng mà sự tác động của nó làm biến đổi sâu sắc trên tất cả các mặt của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, xã hội ở hầu hết các nước trên Thế giới. Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu đã dẫn đến sự điều chỉnh về mặt chiến lược và sách lược kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại, không chỉ ở các nước xã hội chủ nghĩa mà còn ở các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế phát triển. Sự xuất hiện tính chỉnh thể, tính nhân loại, tính toàn cầu trong mối quan hệ với tính giai cấp và đấu tranh giai cấp, theo đó phương pháp giải quyết những vấn đề kinh tế và công nghệ đều có liên quan đến kinh tế đối ngoại của các quốc gia. Mặc dù chiến tranh cục bộ, nội chiến sắc tộc vẫn có thể xảy ra nhưng sẽ không kéo dài. Bầu không khí Thế giới vẫn đi theo xu hướng là chuyển từ đối đầu, từ chiến tranh sang đối thoại, hoà bình. Có thể nói, trong thời đại ngày nay, kinh tế có một vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định không chỉ đối với nền kinh tế Thế giới mà còn trên tất cả các mặt chính trị, xã hội. Do đó, để tồn tại và phát triển, dù ở mức độ này hay mức độ khác, các quốc gia đều đã và đang mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế - đó là một trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước, đó còn là xu thế chung của thời đại ngày nay. Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam không thể không tham gia vào tiến trình hội nhập đó của Thế giới, với không ít những khó khăn và thách thức. Đó chính là lý do của bài viết này. Bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong sự giúp đỡ của thầy cô cho em hoàn thành bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn.
Phần nội dung
I. Cơ sở lý luận
1. Toàn cầu hoá kinh tế là gì
1.1. Tính tất yếu của toàn cầu hoá
Xu thế quốc tế hoá ngày nay diễn ra trên tất cả các mặt của đời sống xã hội mà điển hình là trên lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định chính trị và xã hội của từng nước nói riêng và của toàn thế giới nói chung. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế tất yếu mà tính khách quan và phổ biến của nó bắt nguồn từ yêu cầu của quy luật về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân công tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển không đều về công nghiệp giữa các nước dẫn đến yêu cầu việc sử dụng sao cho có hiệu quả về lợi thế so sánh để nhanh chóng rút ngẵn khoảng cách lạc hậu giữa các nước có nền kinh tế phát triển và kém phát triển. Mở rộng quan hệ đối ngoại còn bắt nguồn từ sản xuất và đời sống ngày nay đã mang tính quốc tế hóa. Đặc biệt sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng Khoa học - Công nghệ đã làm cho lực lượng sản xuất vượt ra khỏi khuôn khổ quốc gia, thông qua các công cụ thông tin hiện đại, những thành tựu khoa học và chuyển giao công nghệ được thực hiện với tốc độ nhanh giữa các nước.
Xu thế quốc tế hoá hay xu thế toàn cầu hoá kinh tế xuất phát từ một số cơ sở khách quan sau:
Thứ nhất, đó là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và sự tác động của cuộc Cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.
Chúng ta biết rằng, trong xã hội phong kiến do lực lượng sản xuất và giao thông kém phát triển cho nên sản xuất và trao đổi chỉ được thực hiện trong một phạm vi quy mô nhỏ. Tính tự cung tự cấp là đặc trưng chủ yếu của phương thức sản xuất phong kiến. Tuy vậy, trong thời đại phong kiến cũng đã có thông thương vượt biên giới quốc gia nhưng chưa tạo ra những quan hệ phụ thuộc trong phát triển, chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại. Khi nghiên cứu Chủ nghĩa tư bản, Mac và Anghen đã cho rằng, do sự phát triển của lức lượng sản xuất đã dẫn đến sự phân công lao động sản xuất quốc tế, làm cho quá trình sản xuất và tiêu thụ mang tính quốc tế, gẵn bó phụ thuộc vào nhau. Mac và Anghen viết: “ Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường Thế giới thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung, tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Như vậy, quốc tế hóa nói chung và hợp tác kinh tế quốc tế nói riêng có cơ sở chính từ sự phát triển của sản xuất, nó ra đời gắn liền với sự hình thành của thị trường quốc tế. Trong những thế kỉ trước, chính do lực lượng sản xuất phát triển đã làm cho thương mại và đầu tư có tính quốc tế, kéo theo đó là quá trình di dân, lao động và giao dịch tài chính phát triển mạnh mẽ vượt biên giới quốc gia.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, gắn liền với sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc là hiện tượng khoa học_ kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các phát kiến về khoa học nhanh chóng được áp dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phân công lao động phát triển lên một bước mới. Trên thực tế quan hệ giữa khoa học, công nghệ và sản xuất ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong thế kỉ XIX, thời gian đưa phát minh khoa học vào ứng dụng trong sản xuất phải mất từ 60- 70 năm, trong thập niên 90 khoảng 3- 5 năm. Dự báo những năm sau năm 2000 chỉ còn dưới 1 năm. Do sự tác động của các thành tựu khoa học và sự xoá bỏ của hệ thống thuộc địa và phụ thuộc, sản xuất có sự phát triển mạnh mẽ dựa trên sự phân công lao động quốc tế mới đã làm gia tăng đáng kể các hoạt động kinh tế quốc tế, thúc đẩy gia tăng xu thế quốc tế hoá các hoạt động kinh tế.
Dưới sự tác động của khoa học- công nghệ, các ngành kinh tế truyền thống dần dần nhường bước cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa học- kỹ thuật. Sự tăng trưởng của nền kinh tế từ dựa chủ yếu vào nguyên vật liệu và lao động đang chuyển sang dựa chủ yếu vào tri thức. Tri thức trở thành động lực chính của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thực tiễn phát triển của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bước chuyển, bước quá độ từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay, ở các quốc gia Bắc Mỹ và một số quốc gia phát triển Tây Âu các lĩnh vực kinh tế tri thức đã chiếm khoảng 45- 50% GDP. Trong các nước OECD kinh tế tri thức chiếm gần 50% GDP. Sự phát triển của lĩnh vực kinh tế tri thức dựa trên các công nghệ có hàm lượng khoa học- kỹ thuật cao, nhất là công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuận lợi cho sự đẩy mạnh xu thế toàn cầu hóa. Với các công nghệ mới làm tăng tốc độ giao dịch kinh doanh, rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian. Các công việc giao dịch hiện nay phần nhiều được thực hiện qua mạng với các máy vi tính xách tay. Hệ thống mạng Internet quốc tế hình thành cho phép con người có thể biết được hầu như mọi diễn biến của đời sống kinh tế- xã hội trên thế giới trong giây lát. Và chính điều nay sẽ góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo điều kiện cho dân chủ, phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở cửa, giao lưu hội nhập.
Tóm lại, cuộc Cách mạng khoa học- công nghệ đã làm cho phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất diễn ra trên phạm vi thế giới ngày càng sâu sắc, làm phá vớ hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người trên tất cả các mặt giữa các quốc gia. Các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của quá trình toàn cầu hóa và đương nhiên để tồn tại, phát triển trong điều kiện ngày nay không thể không tham gia quá trình toàn cầu hóa, tức phải hội nhập quốc tế. Hiện nay, hợp tác và cạnh tranh là hai mặt của nền kinh tế thế giới, các quốc gia phát triển trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, phải vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để cùng tồn tại và phát triển.
Thứ hai là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, gắn liền với sự hình thành các thị trường liên quốc gia mà đóng vai trò quan trọng là các công ty độc quyền đa quốc gia ( TNC).
Ngày nay, khi kinh tế thị trường càng phát triển thì nhu cầu về thị trường, nguyên liệu càng trở nên quan trọng. Kinh tế thị trường càng phát triển thì có nghĩa phân công lao động càng sâu sắc, vì vậy, các thị trường càng gắn bó phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Đồng thời kinh tế thị trường còn mở ra điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, thúc đẩy sự phân công lao động. Sự phát triển mạnh mẽ của Anh trong thế kỉ XIX và XX cũng gắn liền với sự phát triển của kinh tế thị trường, của sự bành trướng thế lực kinh tế ra ngoài, tạo ra sự liên hệ, ràng buộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế hoá thể hiện trên hai khía cạnh chính. Thứ nhất, kinh tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quy mô sản xuất không bó hẹp trong phạm vi của từng quốc gia mà trong tầm quốc tế như vậy cũng có nghĩa là thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, gắn các quốc gia vào trong sự ràng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Thứ hai, kinh tế thị trường phát triển ở các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho xử lý các mối quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trường. Với sự cùng tồn tại cơ chế thị trường trong các nền kinh tế, có nghĩa rằng cùng tồn tại cơ chế, phương thức phân bổ các nguồn lực từ sức lao động đến tư liệu sản xuất. Điều này rõ ràng là có ý nghĩa cho thúc đẩy, mở rộng đầu tư, giao dịch thương mại và tiếp nhận nguồn lao động … Có thể nói, ngày nay nền kinh tế Thế giới thống nhất ở cơ chế vận hành: cơ chế thị trường- đây chính là cơ sở cho sự gia tăng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì sự giao thoa, xâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế càng gia tăng. Hiện nay, đóng vai trò kinh tế chính của Thế giới, góp phần không nhỏ vào nền kinh tế Thế giới, vào xu thế toàn cầu hoá kinh tế, không thể không kể đến vai trò của các công ty độc quyền đa quốc gia. Chính sự độc quyền của các công ty này đã thúc đẩy giao lưu buôn bán trên thị trường, làm tăng cường sự liên kết và ràng buộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Các công ty độc quyền đa quốc gia có quy mô ngày càng lớn, ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế Thế giới. Hiện nay, trên Thế giới có 60.000 công ty độc quyền đa quốc gia, chi phối hầu hết nền kinh tế Thế giới, nhưng vẫn trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường không chỉ ở sự mở rộng qui mô về không gian, về sự xâm nhập, ràng buộc lẫn nhau giữa các thị trường mà còn thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu, đó là sự bùng nổ phát triển của thị trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công cụ mới trong thanh toán giao dịch. Các thị trường tài chính đan xen chặt chẽ đến mức lãi suất cho vay và giá chứng khoán cũng ràng buộc lẫn nhau và lượng vốn tư nhân luân chuyển trên thị trường tài chính lớn hơn tài nguyên của nhiều nước. Thị trường sản phẩm hàng hoá cũng gia tăng mạnh mẽ, thể hiện ở quy mô chưa từng có của khối lượng giao dịch thương mại và ở sự phát triển của các dạng mới như thương mại dịch vụ và điện tử.
Như vậy, có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường chính là cơ sở, là điều kiện cho quá trình quốc tế hoá. Nhìn chung các quốc gia trên Thế giới ngày nay đều dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương tiện và công cụ của kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian rộng lớn, không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyển các yếu tố của chính quá trình sản xuất ấy.
Thứ ba, là sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh Thế giới kết thúc chiến tranh lạnh, bước vào thời kì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Thế giới hình thành trật tự đối đầu giữa hai cực, giữa hai hình thái kinh tế- xã hội. Quan hệ giao lưu kinh tế giữa hai hình thức rất hạn chế. Sự cách trở này là nhân tố ảnh hưởng lớn đến xu thế toàn cầu hoá. Trong suốt mấy thập kỉ chạy đua vũ trang, nhất là vũ trang hạt nhân đã dẫn tới hình thành những kho vũ khí huỷ diệt khổng lồ đe dọa sự tồn vong của cả nhân loại. Do việc chạy đua vũ trang đòi hỏi phải khai thác các nguồn lực ở mức độ tối đa có thể nhằm dành ưu thế trong cạnh tranh. Hơn nữa, quá trình công nghiệp hoá sau chiến tranh Thế giới thứ hai diễn ra theo mô thức khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá mà không chú ý đến tái tạo tài nguyên, lập lại hệ thống cân bằng sinh thái, đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề có tính toàn cầu tác động tiêu cực tới cuộc sống con người. Đó là sự ô nhiễm môi trường, sự gia tăng hiệu ứng nhà kính, sự phá huỷ tầng ôzôn, dịch bệnh, thiếu nguồn nước. Theo số liệu thống kê năm 1996 có tới 40% dân số Thế giới tại 80 quốc gia có khả năng chết do thiếu nước, uống nước bẩn- là nguồn gốc gây ra 80% các loại bệnh tại các quốc gia đang phát triển.
Không những thế, sự phát triển của nền kinh tế Thế giới trong những thế kỉ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai dưới tác động của các quy luật thị trường cũng đã đẩy đến tình trạng phân hoá giàu nghèo một cách sâu sắc. Đây cũng là vấn đề lớn có tính toàn cầu mà để giải quyết nó cần có sự phối hợp cố gắng của tất cả các quốc gia giàu cũng như nghèo. Trong quá trình cạnh tranh, phát triển kinh tế, các vấn đề môi trường về thương mại và đầu tư cũng bùng nổ, sự khan hiếm nguyên liệu cũng gia tăng, tất cả đều liên quan đến sự phát triển, tồn vong không chỉ của một hoặc vài quốc gia mà của toàn thể cộng đồng nhân loại.
Nhìn chung, các vấn đề toàn cầu đều có quan hệ nhân quả với nhau, cho nên phải có quan điểm tổng thể khi giải quyết và đòi hỏi phải có sự nỗ lực của mọi quốc gia. Các vấn đề toàn cầu là liên quan đến mọi quốc gia, nó tác động trên phạm vi Thế giới. Vì lợi ích của nhân loại cũng như của chính mỗi quốc gia, đòi hỏi phải có liên kết sức mạnh của cả cộng đồng. Bản thân mỗi quốc gia, cho dù có tiềm lực mạnh đế đâu cũng không thể giải quyết nổi vấn đề liên quan đến toàn Thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan quy định, thúc đẩy những cố gắng phối hợp liên kết sức mạnh, là cơ sở cho việc tiến tới thống nhất những quy trình, quy phạm chung cho quá trình phát triển kinh tế. Đây chính là cơ sở quan trọng cho sự ra đời của xu thế toàn cầu hoá mà gốc rễ để giải quyết mọi vấn đề vẫn là trên lĩnh vực kinh tế. Do đó các quốc gia cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình phát triển kinh tế sâu rộng của các nước trên Thế giới vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu, là một quá trình mà mọi cơ hội và nguyện vọng của mọi người thuộc các chủng tộc và các dân tộc khác nhau, các giá trị văn hoá không giống nhau, kinh tế- xã hội khác nhau, phải tìm ra những điểm chung giữa những nét đặc thù, tìm ra một cơ chế mới trong các mối quan hệ kinh tế- xã hội để cùng tồn tại và phát triển.
1.2. Những tác động của toàn cầu hoá kinh tế
Nhìn một cách toàn cục, toàn cầu hoá mà cụ thể hơn là toàn cầu hoá kinh tế đã và đang có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế Thế giới. Thực chất của những tác động đó được biểu hiện trên một số phương diện sau:
Thứ nhất, toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất nhanh, mạnh sự phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế lên mức cao ( vào nửa đầu thế kỉ XX, GDP của Thế giới tăng 2,7 lần, đến nửa cuối tăng 5,2 lần). Toàn cầu hoá kinh tế là sản phẩm của cuộc Cách mạng khoa học- công nghệ, của sự phân công lao động xã hội và xã hội hoá lực lượng sản xuất trên phạm vi toàn Thế giới nhưng chính quá trình toàn cầu hoá kinh tế đó lại tác động ngược lại, góp phần thúc đẩy những tiến bộ khoa học- kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế Thế giới. Đồng thời, toàn cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế Thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu kinh tế Thế giới.
Thứ hai, dưới tác động của toàn cầu hoá, các thị trường Thế giới từng bước được thống nhất và ngày càng phát triển. Với xu thế đó, nó sẽ tạo nên một sự loại bỏ các rào cản và có một sự điều chỉnh trong quy tắc vận hành. Trước hết, khi thị trường Thế giới thống nhất và phát triển thì các rào cản thương mại sẽ từng bước bị loại bỏ, một trong những thành công của phương diện này là sự ra đời của tổ chức thương mại Thế giới (WTO) ngày 1-1-1995 và tiếp theo là việc giảm thuế quan giữa các thành viên của WTO xuống mức bình quân là 3% đối với các nước phát triển và dưới 15% đối với các nước đang phát triển. Đồng thời, do giá thành vận tải thương mại quốc tế liên tục hạ, hiện nay chỉ còn 2% giá trị hàng hoá, trong khi tỷ lệ xuất khẩu vẫn không ngừng tăng, năm 1998 là 24,3% và dự tính đến 2005 sẽ đạt 28%. Thương mại phát triển khiến thị trường Thế giới thống nhất hơn, xu thế thống nhất lại đòi hỏi loại bỏ các hàng rào thương mại.
Không chỉ trên lĩnh vực thương mại mà cả trên lĩnh vực sản xuất và thị trường tiền tệ cũng ngày càng thống nhất. Đến cuối năm 1993, tổng đầu tư trực tiếp vào các ngành đạt hơn 2 tỷ USD, gấp 210 lần năm 1953, đầu tư nước ngoài của thị trường tiền tệ là 1.776 tỷ USD, gấp 150 lần năm 1953. Đến cuối những năm 90, hai số liệu này phát triển lên tới 4000 tỷ và hơn 48.000 tỷ USD, xu thế tăng trưởng rất rõ rệt. Đồng thời tỷ trọng dịch vụ ở nước ngoài trên dịch vụ các chủ thể kinh tế hữu quan cũng đang gia tăng nhanh chóng, hệ thống phân công sản xuất cùng ngành nghề mang tính toàn cầu đang hình thành. Mạng lưới sản xuất mang tính toàn cầu sẽ thực hiện “kết nối” Thế giới.
Thứ ba, toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy quá trình nhất thể hoá kinh tế khu vực tăng nhanh chóng, trao đổi kinh tế giữa các khu vực ngày càng quan trọng, tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các nền kinh tế và các khu vực kinh tế. Theo thống kê của Liên hiệp quốc trong những năm 60 có khoảng 19 tổ chức nhất thể hoá kinh tế khu vực, những năm 70 có 28 tổ chức, những năm 80 con số này là 32 và những năm 90 đã lên tới gần 60 tổ chức với hơn 160 nước tham gia dưới các loại hình và mức độ khác nhau. Sự gia tăng các tổ chức nhất thể hóa kinh tế góp phần thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá kinh tế, việc giao lưu trao đổi các hoạt động kinh tế để kiếm lợi ích kinh tế giữa các nền kinh tế, các khu vực kinh tế ngày một gia tăng, làm cho nền kinh tế mỗi quốc gia , khu vực trở thành một bộ phận của kinh tế Thế giới, hình thành một cục diện kinh tế Thế giới mới. Một cục diện trong đó các thành viên tồn tại trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, cùng nhau phát triển.
Thứ tư, với sự gia tăng của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, hàng rào phi thuế quan sẽ thịnh hành hơn. Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế, mỗi nền kinh tế đều phải tính toán chiến lược để đảm bảo an toàn kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc gia, vì thế hàng rào phi thuế quan sẽ là công cụ được ưa chuộng hơn cả. Hiện nay, đã có hơn 1000 loại hàng rào phi quan thuế. Song dự đoán của các chuyên gia kinh tế, loại hình hàng rào phi quan thuế sẽ còn phát triển mạnh trong thập kỉ tới, mà chủ yếu tập trung trên các phương diện như: hàng rào bảo vệ môi trường, hàng rào thông tin, hàng rào công nghệ thương mại …
Thứ năm, toàn cầu hóa sé làm gia tăng tỷ trọng các loại hình đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. Đầu những năm 90, có khoảng 50,17% vốn đầu tư nước ngoài của các nước phát triển dành cho các ngành dịch vụ, tỷ trọng đó của các nước đang phát triển cũng là 29,5%. Sở dĩ như vậy vì các ngành công nghiệp hiện nay phần lớn đã ở tình trạng bão hoà, ít không gian mới, trong khi đó các ngành dịch vụ được xây dựng trên nền tảng vốn doanh nghiệp, chu kì kinh doanh ngắn, kết quả nhanh nên các nhà đầu tư thích bỏ vốn vào lĩnh vực này. Trong hội nghị tổ chức thương mại Thế giới, thương mại dịch vụ là một trong ba đề tài lớn, điều đó đủ thấy xu thế phát triển của nó, vì vậy, xu hướng đầu tư vào ngành dịch vụ sẽ có thể tăng khá nhanh trong những thập kỉ tới.
Qua đó, ta thấy được những tác động của quá trình toàn cầu hoá kinh tế đối với nền kinh tế Thế giới. Nó có nguồn gốc từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế nhưng nó lại tạo điều kiện tiếp theo cho sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế Thế giới. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa này không chỉ tác động đối với Thế giới trên lĩnh vực kinh tế mà còn cả trên lĩnh vực ở những mặt nhất định. Một thế giới hoà bình, hợp tác sẽ có một nền kinh tế phát triển cao và ổ