Quá trình toàn cầu hoá quốc tế hoá đang phát triển mạnh mẽ ở khắp các châu lục, các khu vực trên thế giới, với sự tham gia ngày càng rộng rãi của tất cả các nước chậm và đang phát triển. Những lợi ích to lớn của hội nhập kinh tế mang lại cho mỗi quốc gia là rất rõ ràng và khó có thể bác bỏ.
91 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động gia công xuất khẩu của công ty may Minh Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu.
Quá trình toàn cầu hoá quốc tế hoá đang phát triển mạnh mẽ ở khắp các châu lục, các khu vực trên thế giới, với sự tham gia ngày càng rộng rãi của tất cả các nước chậm và đang phát triển. Những lợi ích to lớn của hội nhập kinh tế mang lại cho mỗi quốc gia là rất rõ ràng và khó có thể bác bỏ.
Ra đời từ năm 1958, ngành dệt may Việt Nam đến nay đã có trên 40 năm hoạt động và đem lại những lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế đất nước. Ngành Dệt may cùng với các ngành công nghiệp khác tạo thêm sức mạnh cho đất nước nhanh chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Để có thể phát triển và đưa ngành Dệt may nước ta trở thành một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải cố gắng phấn đấu và hoàn thiện mình. Là một trong những doanh nghiệp tư nhân của ngành Dệt may Việt Nam, công ty May Minh Trí cũng có những nét đặc trưng chung của ngành may xuất khẩu nước ta, song cũng có những nét đặc thù riêng. Hoạt động của công ty May Minh Trí 100% là gia công xuất khẩu. Nhìn chung hoạt động của công ty được tiến hành thuận lợi, nhưng bên cạnh đó còn phát sinh nhiều vấn đề vướng mắc cần giải quyết. Đặc biệt vấn đề hiệu qủa kinh doanh là một vấn đề rất quan trong đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và với công ty May Minh Trí cũng vậy vấn đề hiệu quả gia công xuất khẩu là rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình thực tập tại công ty em đã tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh của công ty em thấy rằng bên cạnh những mặt mà công ty đã làm được để công ty hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì vẫn còn tồn tại những việc mà công ty đang vướng mắc. Để hoạt động gia công xuất khẩu đạt hiệu quả nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho công ty là làm sao để nâng cao hiệu quả hoạt động gia công xuất khẩu hơn nữa để công ty ngày càng phát triển. Đây cũng chính là lý do em đã chọn đề tài:
“mot so bien phap nham nang cao hieu qua hoat dong gia cong xuat khau cua cong ty may minh tri.”
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các đánh giá về thực trạng hiệu quả gia công xuất khẩu của công ty May Minh Trí.
Trong đề tài này em sử dụng phương pháp thống kê các số liệu để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu hàng dệt may của Công ty trong thời gian qua, từ đó đưa ra những biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may của Công ty trong thời gian tới.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục và danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề tốt nghiệp gồm các phần sau :
Chương I: Lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gia công xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng hiệu quả kinh doanh gia công xuất khẩu của công ty May Minh Trí.
Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu của công ty May Minh Trí.
Do thời gian và trình độ có hạn nên bài viết sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong cô và thầy có sự giúp đỡ để bài viết được hoàn thiện hơn. Và để hoàn thành bài viết này em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô PGS .TS Nguyễn Thị Hường và thầy Thạc Sỹ Mai Thế Cường đã giúp em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chương I
lý luận về hiệu quả Kinh doanh của doanh nghiệp gia công xuất khẩu
I. Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1. Khái niệm và bản chất hiệu quả kinh doanh
1.1.Khái niệm
Trong thời buổi cơ chế thị trường như hiện nay, mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều có mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để đạt mức lợi nhuận cao, các doanh nghiệp cần phỉa hợp lý hoá quá trình sản xuất kinh doanh, từ khâu chọn yếu tố đàu vào đến khâu thực hiện sản xuất và cung ứng, tiêu thụ. Mức độ hựop lý hoá của quá trình đó được phản ánh qua một phạm trù kinh tế cơ bản gọi là hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh trong đó doanh nghiệp nhằm thu hút dược kết quả cao nhất với một chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà hiệu quả kinh doanh là vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh doanh, xuất phát từ góc độ nghiên cứu khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh doanh và sự hình thành phát triển của ngành quản trị doanh nghiệp. Sau đây chúng ta sẽ xem xét một vài quan điểm về khái nhiệm này:
Quan điểm thứ nhất - quan điểm của nhà kinh tế học người Anh Adam Smith theo ông: “Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, doanh thu tiêu thụ hàng hoá”. ở đây, hiệu quả kinh doanh được ông đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó giải thích kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do chi phí mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất. Nếu cùng một kết quả nhưng có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng có cùng một mức hiệu quả.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của phần kết quả và phần tăng thêm của chi phí ”. Quan điểm này đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí tiêu hao. Nhưng xét trên quan điểm triết học của chủ nghĩa Marx – Lênin thì sự vật và hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng rẽ độc lập. Hơn nữa sản xuất kinh doanh là một quá trình trong đó các yếu tố tăng thêm có quan hệ mật thiết với các yêú tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lam kết quả kinh doanh chỉ được xét tới phần kết quả bổ sung và chi phí bổ sung.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh đo được bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất hiệu quả kinh tế. Nó gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên, quan điểm này chưa biểu hiện hết được tư tương quanvề lượng và chất giữa kết quả và chi phí và chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối lieen hệ này. Để phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, chúng ta phải cố định một trong hia yếu tố hoặc kết quả kinh doanh đạt được hoặc chi phí kinh doanh bỏ ra. Nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lênin thì các yếu tố này không ở trong trạng thái tĩnh mà luôn vận động biến đổi.
Quan điểm thứ tư cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu quy luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội cho rằng quỹ tiêu dùng với tư cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp”. Quan điểm này có ưu điểm là bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Song khó khăn ỏ đây là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng rất đa dạng và phong phú. Xác định được mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống là điều khó khăn.
Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân: “Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế xã hội tổng hợp để lựa chọn các phương án hoặc các quyết định trong quá trình hoạt động thực tiễn ở mọi lĩnh vực kinh doanh và tại mọi thời điểm”.
Từ các khái niệm về hiệu quả có thể đưa ra công thức tình hiệu quả :
K
C
E = (1)
C
Hay
K
E = (2)
* E: Hiệu quả kinh doanh
* C: Chi phí yếu tố đầu vào
* K: Kết quả nhận được
Kết quả đầu ra có thể đo bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản lượng doanh thu thuần, lợi nhuận thuần, lợi tức gộp … Còn yếu tố đầu vào bao gồm: lao động đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu và vốn vay.
Công thức (1) phản ánh sức sản xuất mức sinh lời của các yếu tố đầu vào được tính cho tổng số và tính riêng cho giá trị gia tăng. Côn thức này cho biết cứ một đơn vị đầu vào được sử dụng thì cho ta bao nhiêu kết quả đầu ra.
Công thức (2) được tính nghịch đảo của công thức (1) phản ánh suất hao phí các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có một đơn vị kết quả đầu ra thì cần có bao nhiêu đơn vị yếu tố đầu vào.
1.2. Bản chất hiệu quả kinh doanh
Từ khái niệm về hiệu quả kinh doanh ở trên đã nêu khẳng định bản chất của hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh phản ánh được tình hình sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi ích của doanh nghiệp và xã hội. Như vậy, vấn đề đặt ra là doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả kinh doanh thì phải chú ý tới hai vấn đề chính là tối đa hoá lợi ích doanh nghiệp và tối đa hoá lợi ích xã hội.
Điều đó có nghĩa là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện cả về mặt không gian và thời gian trong mối quan hệ chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Về mặt thời gian, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ, chu kỳ kinh doanh tiếp theo tức là đòi hỏi doanh nghiệp không được vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi lợi ích lâu dài. Trong thực tế điều này rất dễ xảy ra khi con người tiến hành sản xuất kinh doanh, khi con người khai thác tài nguyên, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn tuỳ tiện sẽ gây ra thiệt hại lợi ích cho xã hội. Doanh nghiệp không thể coi việc giảm các chi phí tăng doanh thu là có hiệu quả khi giảm một cách tuỳ tiện thiếu cân nhắc các chi phí cải tạo môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái đầu tư cho giáo dục, đào tạo…
Như vậy, hiệu quả kinh doanh của chỉ có thể đạt được một cách toàn diện khi hoạt động của doanh nghiệp mang lại hiệu quả không ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
2.1. Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh xã hội
Hiệu quả tài chính hay còn gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả xem xét trong phạm vi doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phán ánh mối quan hệ lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế đó. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Biểu hiện chung của hiệu quả doanh nghiệp là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả này là lợi nhuận cao nhất và ổn định.
Hiệu quả kinh xã hội hay còn gọi là hiệu quả kinh tế xã hội tổng hợp xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Hiệu quả xã hội mà doanh nghiệp mang lại cho cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của doanh nghiệp vào sự phát triển xã hội tích luỹ ngoại tệ tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải tiến đời sống cho người lao động…
Hiệu quả tài chính là mối quan tâm của các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế xã hội là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại diện là nhà nước. Hiệu quả tài chính được xét theo quan điểm doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế xã hội xem xét theo quan điểm toàn xã hội. Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội là mối quan hệ giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và toàn xã hội. Đó là quan hệ thống nhất có mâu thuẫn, trong quản lý kinh tế không những cần tính hiệu quả tài hính cho doanh nghiệp mà còn phải đến hiệu quả kinh tế xã hội của doanh nghiệp đem lại cho nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả xã hội chỉ đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp đem lại cho toàn xã hội. Các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội đó chính là tiền đề cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Để doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội nhà nước phải có chính sách đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích xã hội với lợi ích doanh nghiệp và lợi ích cá nhân.
Hiệu quả kinh doanh bộ phận và kinh doanh tổng hợp
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh nghiệp cho tất cả các bộ phận trong doanh nghiệp .
Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh tính riêng cho từng bộ phận hoặc tính riêng cho từng yếu tố sản xuất.
Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn với môi trường và thị trường kinh doanh của nó. Doanh nghiệp nào cũng căn cứ vào thị trường để giải quyết các vấn đề: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?
Mỗi doanh nghiệp đều tiến hành sản xuất kinh doanh của mình trong điều kiện cụ thể về tài nguyên trình độ trang thiết bị kỹ thuật trình độ tổ chức quản lý lao động quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm với chi phí cá biệt nhất định và người nào cũng muốn tiêu thụ hàng hoá của mình với giá cao nhất. Tuy vậy khi đưa hàng hoá của mình ra thị trường, họ chỉ có thể bán sản phẩm của mình theo giá thị trường nếu chất lượng sản phẩm của họ là tương đương. Bởi vì thị trường chỉ chấp nhận mức hao phí xã hội cần thiết trung bình để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá. Quy luật giá trị đặt tất cả các doanh nghiệp với một mức chi phí khác nhau trên cùng một mặt bằng trao đổi, thông qua mức giá cả thị trường.
2.3. Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối và hiệu quả kinh doanh tương đối
Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án kinh doanh cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với chi phí bỏ ra.
Hiệu quả tương đối được xác định băng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án khác nhau hay chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án.
Như vậy hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Trong hoạt động quản lý kinh doanh thì việc xác định hiệu quả nhằm mục tiêu cơ bản:
- Để thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các nguồn lực trong hoạt động kinh doanh.
- Phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể đó để lựa chọn phương án tối ưu nhất.
Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ ra chi phí để thực hiện một phương án quyết định nào đó. Để biết rõ chi phí bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể là gì, từ đó quyết định bỏ tiền ra thực hiện phương án hay quyết định kinh doanh phương án đó hay không. Vì vậy, trong công tác quản lý kinh doanh, bất cứ việc gì đòi hỏi chi phí dù là một phương án lớn hay phương án nhỏ đều cần phải tính hiệu quả tuyệt đối.
. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài
Hiệu quả trước mắt có ngay trước mắt, tức là thu được hiệu quả ngay trong ngắn hạn
Hiệu quả lâu dài có được trong dài hạn, tức là hiệu quả thu được trong tương lai xa.
2.5. Hiệu quả kinh doanh trực tiếp và hiệu quả kinh doanh gián tiếp
Hiệu quả trực tiếp là hiệu quả mang lại cho chính đối tượng xem xét.
Hiệu quả gián tiếp là hiệu quả mang lại cho đối tượng liên quan đến đối tượng xem xét.
3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh
Dựa trên nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu bằng cách so sánh giữa kết quả kinh tế và chi phí kinh tế, chúng ta có thể lập được một hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể phân các chỉ tiêu thành hai nhóm chỉ tiêu là chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu bộ phận.
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp (khái quát) các chỉ tiêu bộ phận (cụ thể). Các chỉ tiêu đó phảỉ phản ánh được sức sản xuất, suất hao phí cũng như sức sinh lời của từng nhân tố sản xuất kinh doanh và phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung:
(1)
Kết quả
Hiệu quả kinh doanh =
Chi phí
(2)
Hay nghịch đảo của công thức trên:
Chi phí
Hiệu quả kinh doanh =
Kết quả
Công thức (1) cho biết một lượng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu lượng kết quả.
Công thức (2) cho biết trong lượng kết quả thu được thì phải bỏ ra bao nhiêu lượng chi phí.
Nhóm chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả kinh doanh của toàn bộ quá trình kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng của tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Nhóm chỉ tiêu hiệu quả bộ phận là nhóm chỉ tiêu dùng để phân tích hiệu quả kinh doanh của từng yếu tố, từng hoạt động cụ thể. Các chỉ tiêu bộ phận có hai chức năng sau:
- Phân tích có tính chất bổ xung cho chỉ tiêu tổng hợp để kiểm tra và khẳng định rõ hơn kết luận rút ra từ chỉ tiêu tổng hợp.
- Phân tích hiệu quả từng mặt, từng yếu tố đầu vào nhằng tìm biện pháp tối đa hiệu quả kinh doanh tổng hợp.
Mối quan hệ giữa hai nhóm chỉ tiêu này không phải chỉ là mối quan hệ cùng chiều mà có khi còn là mối quan hệ ngược chiều, trong lúc chỉ tiêu tổng hợp tăng lên thì có thể có các chỉ tiêu bộ phận tăng lên hoặc giảm đi không đổi. Như vậy cần chú ý là:
- Chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh toàn diện còn chỉ tiêu bộ phận thì không đảm nhiệm chức năng đó.
- Chỉ tiêu bộ phận phản ánh hiệu quả kinh doanh của từng mặt hoạt động nên thường sử dụng trong phân tích thống kê, phân ttích cụ thể chính xác mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, từng hoạt động từng bộ phận công tác, tác động đến hiệu quả kinh doanh.
3.1. Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp
Lợi nhuận
Hệ số doanh lợi vốn kinh doanh =
Vốn kinh doanh
ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là giá trị của của nguồn vốn đã hình thành nên toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Nói cách khác vốn kinh doanh là hình thái tiền tệ của toàn bộ vốn cố định và vốn lưu động được doanh nghiệp dùng vào quá trình sản xuất.
Lợi nhuận
Hệ số doanh lợi của doanh thu =
Doanh thu
ý nghĩa: chỉ tỉêu này cho biết trong một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Doanh thu
Hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh =
Chi phí kinh doanh
ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra sẽ mang về bao nhiêu đồng doanh thu.
Chi phí kinh doanh là toàn bộ các chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh bao gồm chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí vật chất khác cho quá trình sản xuất như: chi phí nguyên vật liệu, công cụ lao động nhỏ, điện, nước, chất đốt…, chi phí dịch vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
3.2. Nhóm chỉ tiêu hiệu qủa bộ phận
Lợi nhuận
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định =
Vốn cố định
ý nghĩa: chỉ tiêu cho biết số tiền lãi trên một đồng vốn cố định
Lợi nhuận
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động =
Vốn lưu động
ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra thì sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận
Mức sinh lời của một lao động =
Số lao động
ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết một lao động sử dụng trong doanh nghiệp sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Doanh thu
Số vòng luân chuyển của vốn lưu động =
Vốn lưu động
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động sẽ quay được bao nhiêu vòng trong một năm.
Doanh thu
Số vòng quay của toàn bộ vốn =
Vốn kinh doanh
ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị kinh doanh bỏ ra sẽ mang lại bao nhiêu đồng doanh thu, hay phản ánh tốc độ quay của toàn bộ vốn kinh doanh.
Doanh thu
Doanh thu từ một lao động =
Số lao động
ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong một thời kỳ phân tích.
Trên đây là các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá và phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và một điều đáng chú ý rằng để đánh giá hoạt động kinh doanh một cách chính xác thì doanh nghiệp cần phải phân tích sàng lọc số liệu một cách đầy đủ và sát thực thì hiệu quả phản ánh được càng cao. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần lựa chọn cho mình một bộ chỉ tiêu phản ánh đúng thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp mình chứ không nên một lúc đánh giá tất cả các chỉ tiêu trên, để tránh tình trạng kết luận không tập trung được thực trạng vấn đề.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
Các nhân tố chủ quan
4.1.1. Nguồn nhân lực
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nguồn nhân lực tác động trực tiếp lên hiệu quả kinh doanh theo có hướng sau:
Trình độ lao động: nếu lực lượng lao động cuẩ doanh nghiệp có trình độ tương ứng sẽ góp phần quan trọng trong vận hành có hiêụ quả yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ cấu lao động: nếu doanh nghiệp có cơ cấu lao động hợp lý phù hợp trước hết góp phần vào sử dụng có hiệu quả bản thân các yếu tố lao động trong qúa trình sản xuất kinh