Đề tài Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - XVIII (lớp 10 THPT chương trình chuẩn

Đất nước ta đang trên con đường đổi mới, vì vậy vấn đề giáo dục được Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm “Giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu ” (trích Hiến pháp năm 1992). Những nội dung đổi mới sự nghiệp giáo dục được đề ra trong nghị quyết Trung Ương II đã khẳng định “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, đạo đức, tri thức, sức khoẻ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành nhân cách và bồi dưỡng, phẩm chất năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc” (3; 23) Cùng với các bộ môn khác, môn lịch sử với chức năng, nhiệm vụ của mình đã góp phần tích cực vào giáo dục con người trong công cuộc đổi mới “Bởi vì tri thức lịch sử là một yếu tố của nền văn hoá chung của loài người và không thể coi giáo dục con người hoàn thành đầy đủ nếu không trang bị cho học sinh những hiểu biết cần thiết về lịch sử ” (31; 81) Nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông nhằm trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản về tiến trình phát triển hợp quy luật của lịch sử xã hội loài người và dân tộc, trên cơ sở đó giáo dục tư tưởng, tình cảm, góp phần phát triển toàn diện học sinh. Do đặc trưng của bộ môn lịch sử, không thể trực tiếp tri giác được các sự kiện, hiện tượng lịch sử đã xảy ra, không thể tái hiện lịch sử trong phòng thí nghiệm. Chính vì vậy, việc tái tạo lịch sử bằng cách tạo biểu tượng đúng đắn, sinh động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử vừa là nguyên tắc vừa là một biện pháp trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông, giúp cho giờ học thêm sinh động, học sinh hứng thú với môn học. Song hiện nay tình trạng học sinh nắm kiến thức về địa danh, không gian xảy ra sự kiện lịch sử một cách mơ hồ, tình trạng nhầm lẫn giữa các địa danh diễn ra phổ biến. Giáo viên ít chú ý đến việc tạo biểu tượng không gian, cung cấp cho học sinh kiến thức về địa danh mà chỉ chú ý tình bày về diễn biến, kết quả của sự kiện. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến cho chất lượng hiệu quả bài học lịch sử chưa tốt, học sinh ít hứng thú với bài học lịch sử. Để góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử, cần sử dụng nhiều phương pháp dạy học, trong đó biện pháp sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử là điều cần thiết.

doc83 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3558 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - XVIII (lớp 10 THPT chương trình chuẩn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Đất nước ta đang trên con đường đổi mới, vì vậy vấn đề giáo dục được Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm “Giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu…” (trích Hiến pháp năm 1992). Những nội dung đổi mới sự nghiệp giáo dục được đề ra trong nghị quyết Trung Ương II đã khẳng định “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, đạo đức, tri thức, sức khoẻ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành nhân cách và bồi dưỡng, phẩm chất năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc” (3; 23) Cùng với các bộ môn khác, môn lịch sử với chức năng, nhiệm vụ của mình đã góp phần tích cực vào giáo dục con người trong công cuộc đổi mới “Bởi vì tri thức lịch sử là một yếu tố của nền văn hoá chung của loài người và không thể coi giáo dục con người hoàn thành đầy đủ nếu không trang bị cho học sinh những hiểu biết cần thiết về lịch sử…” (31; 81) Nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông nhằm trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản về tiến trình phát triển hợp quy luật của lịch sử xã hội loài người và dân tộc, trên cơ sở đó giáo dục tư tưởng, tình cảm, góp phần phát triển toàn diện học sinh. Do đặc trưng của bộ môn lịch sử, không thể trực tiếp tri giác được các sự kiện, hiện tượng lịch sử đã xảy ra, không thể tái hiện lịch sử trong phòng thí nghiệm. Chính vì vậy, việc tái tạo lịch sử bằng cách tạo biểu tượng đúng đắn, sinh động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử vừa là nguyên tắc vừa là một biện pháp trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông, giúp cho giờ học thêm sinh động, học sinh hứng thú với môn học. Song hiện nay tình trạng học sinh nắm kiến thức về địa danh, không gian xảy ra sự kiện lịch sử một cách mơ hồ, tình trạng nhầm lẫn giữa các địa danh diễn ra phổ biến. Giáo viên ít chú ý đến việc tạo biểu tượng không gian, cung cấp cho học sinh kiến thức về địa danh mà chỉ chú ý tình bày về diễn biến, kết quả của sự kiện. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến cho chất lượng hiệu quả bài học lịch sử chưa tốt, học sinh ít hứng thú với bài học lịch sử. Để góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử, cần sử dụng nhiều phương pháp dạy học, trong đó biện pháp sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử là điều cần thiết. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - XVIII (lớp 10 THPT chương trình chuẩn)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành PPDHLS. Với mong muốn tìm hiểu hệ thống hơn về vai trò của biện pháp dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian cho học sinh, từ đó tích lũy thêm kinh nghiệm cho quá trình giảng dạy sau này. 2. Lịch sử vấn đề Vấn đề sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử không còn là vấn đề mới đối với khoa học giáo dục và được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. N. G. Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” đã khẳng định “Tính cụ thể, tính hình ảnh là những sự kiện có giá trị lớn lao, chúng cho phép hình dung lại quá khứ chỉ bằng những chi tiết cụ thể, dễ nhìn mới giúp hình thành ở học sinh niềm tin vững chắc” (8; 12) Trong cuốn “Một số vấn đề địa danh học Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Âu đã đề cập đến một số quan niệm về địa danh, về mặt không gian địa lí tự nhiên và xã hội. Cuốn sách viết nhằm phục vụ cho nghiên cứu địa danh cho nên có thể làm nguồn tư liệu tham khảo giúp tìm hiểu về quan niệm địa danh, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử một cách khoa học. Đặc biệt trong giáo trình phương pháp dạy học lịch sử, các nhà giáo dục lịch sử đều thống nhất quan điểm cho rằng,xuất phát từ đặc trưng của bộ môn lịch sử là mang tính cụ thể, nên trong giảng dạy lịch sử nhất thiết phải cụ thể hóa địa điểm diễn ra sự kiện bằng cách tạo biểu tượng không gian, trên cơ sở sử dụng đồ dùng trực quan và các tài liệu tham khảo khác. Trong giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” của GS. Phan Ngọc Liên chủ biên xuất bản năm 2003. Sách đã nêu khái quát về khái niệm biểu tượng, phân loại biểu tượng và các biện pháp sư phạm để tạo biểu tượng lịch sử, nhằm góp phần nâng cao nhận thức lí luận của bộ môn, định hướng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên, sinh viên giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường phổ thông. Trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử” do GS.TS Nguyễn Thị Côi chủ biên đã trình bày khá chi tiết về kĩ năng xây dựng và sử dụng bản đồ, cách dạy học sinh đọc bản đồ như thế nào. Trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THCS” (2 tập)do GS.TS Nguyễn Thị Côi và PGS.TS Trịnh Đình Tùng chủ biên đã nêu lên cụ thể về nội dung và phương pháp sư phạm khi sử dụng hệ thống kênh hình trong dạy học lịch sử Việt Nam và thế giới. Sách biên soạn nhằm mục đích giúp cho giáo viên hiểu được nội dung lịch sử thể hiện qua kênh hình trong SGK Lịch sử trung học cơ sở, sách cũng nêu lên một số gợi ý về phương pháp khi sử dụng kênh hình cụ thể. Ngoài ra, một số khóa luận tốt nghiệp, Luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ cũng đi vào tìm hiểu vấn đề tạo biểu tượng không gian nhằm cụ thể hóa địa điểm diễn ra sự kiện, thông qua các nguồn tài liệu phong phú. Như vậy, vấn đề sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng lịch sử nói chung và tạo biểu tượng không gian nói riêng trong dạy học lịch sử đã được đề cập đến nhiều trong các công trình nghiên cứu. Song đó chỉ là những bài viết, bài nghiên cứu, phản ánh ở một khía cạnh nào đó, ở một mức độ nhất định của vấn đề, chứ chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống nhất là việc sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian khi dạy phần Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - XVIII cho học sinh THPT. Tuy vậy, trên cơ sở tiếp thu, học hỏi kết quả nghiên cứu của những người đi trước đã trở thành những gợi mở quý báu cho tôi đi sâu nghiên cứu và thực hiện đề tài “Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - XVIII (lớp 10 THPT chương trình chuẩn)” Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Tên của đề tài đã xác định rõ đối tượng nghiên cứu là “Quá trình khai thác và sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử cho học sinh ở trường THPT. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận không đi sâu nghiên cứu tất cả các địa danh, địa điểm xảy ra sự kiện, hiện tượng lịch sử, mà trên cơ sở lí luận và thực tiễn, khóa luận đi sâu xác định các biện pháp sư phạm giúp học sinh có biểu tượng không gian, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử thông qua dạy phần Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - XV ở lớp 10 THPT. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích: Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử, chúng tôi tìm hiểu kiến thức Lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỉ X - XVIII, đề xuất các nguyên tắc, biện pháp sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam 4.2. Nhiệm vụ: Từ mục đích trên, đề tài phải giải quyết một số nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu lý luận của việc sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng nói chung, biểu tượng không gian nói riêng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, phương pháp dạy học lịch sử và sách giáo khoa Lịch sử - Tiến hành điều tra thực tiễn việc khai thác và sử dụng kiến thức địa danh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. - Tìm hiểu chương trình Lịch sử Việt Nam ở lớp 10 THPT, giai đoạn từ thế kỉ X - XVIII để xác định những địa danh lịch sử cần khai thác và tạo biểu tượng không gian cho học sinh trong dạy học lịch sử. - Đề xuất các nguyên tắc, biện pháp sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian cho học sinh trong phần lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỉ X - XVIII. - Thực nghiệm sư phạm bài 19 “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X - XV” để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Hoàn thành khóa luận này, tôi dựa vào cơ sở lí luận của các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, tài liệu của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục và đào tạo . Ngoài ra, còn có lý luận về tâm lý, giáo dục, phương pháp DHLS của các nhà giáo dục và giáo dục lịch sử có liên quan đến khóa luận. 5.2. Phương pháp nghiên cứu * Nghiên cứu lý thuyết: - Nghiên cứu các tác phẩm của các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và của Đảng ta giáo dục, giáo dục lịch sử. - Nghiên cứu các công trình của các nhà khoa học giáo dục, giáo dục lịch sử viết về phương pháp sử dụng kênh hình, sử dung SGK và các tài liệu lịch sử có liên quan đến đề tài - Nghiên cứu nội dung chương trình lịch sử ở trường THPT và nội dung chương trình lịch sử lớp 10 phần lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - XVIII * Điều tra thực tế: Tìm hiểu thực tế ở trường phổ thông để nắm được tình hình giảng dạy và chất lượng dạy học bộ môn lịch sử. * Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THPT qua một bài lịch sử cụ thể. 6. Ý nghĩa của đề tài - Về mặt lí luận: Nghiên cứu đề tài này góp phần nâng cao trình độ nhận thức bản thân về lí luận dạy học môn lịch sử nói chung, đặc biệt việc sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng không gian trong dạy học lịch sử nói riêng. - Về mặt thực tiễn: Qua đề tài này, giúp bản thân nâng cao trình độ hiểu biết về phương pháp sử dụng kênh hình nhằm tạo biểu tượng về không gian trong dạy học lịch sử, phục vụ cho công tác giảng dạy sau này. 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, thực nghiệm, phụ lục và tài liệu tham khảo thì nội dung khóa luận gồm 2 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử ở trường THPT Chương 2: Một số biện pháp sử dụng kênh hình trong SGK để tạo biểu tượng không gian cho học sinh khi dạy phần Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - XVIII (lớp 10 THPT chương trình chuẩn). B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG KÊNH HÌNH ĐỂ TẠO BIỂU TƯỢNG CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT Cơ sở lý luận 1.1.1. Cơ sở xuất phát 1.1.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông Nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông là phải cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa học để trên cơ sở đó giáo dục tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức và bồi dưỡng khả năng nhận thức, tư duy cho học sinh. Cụ thể: - Nhiệm vụ giáo dưỡng: Ở trường phổ thông, việc dạy học lịch sử trước hết phải cung cấp cho học sinh những cơ sở của khoa học lịch sử, những kiến thức khoa học. Con đường hình thành tri thức lịch sử cho học sinh được thực hiện thông qua việc cung cấp các sự kiện, tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, nêu quy luật và rút ra bài học kinh nghiệm lịch sử, vận dụng vào hiện tại. Mỗi khâu có lên quan chặt chẽ với nhau được thực hiện bởi những biện pháp phù hợp. - Nhiệm vụ giáo dục: Cùng với tất cả các môn học và hoạt động khác ở trường phổ thông, bộ môn lịch sử được coi là môn có sở trường, đặc trưng nhất góp phần giáo dục thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục, đào tạo đã được xác định. Đã từ lâu người ta xem “lịch sử là cô giáo của cuộc sống”, “lịch sử là bó đuốc soi đường đến tương lai”. - Nhiệm vụ phát triển: Việc phát triển năng lực nhận thức và hành động cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử không chỉ làm cho học sinh hiểu biết lịch sử sâu sắc hơn mà còn luyện tập cho các em trở thành những người có tư duy tích cực, độc lập, chủ động, sáng tạo…trong suy nghĩ và học tập. Trong học tập lịch sử, học sinh cần phát triển năng lực nhận thức, tri giác, tưởng tưởng, trí nhớ, tư duy, trong đó tư duy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để đạt được những mục tiêu trên, phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông phải đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh, đem lại hứng thú học tập cho các em. Một trong những biện pháp để thực hiện đổi mới cách dạy và học theo hướng trên là sử dụng kênh hình trong SGK để tạo biểu tượng không gian cho học sinh. 1.1.1.2. Đặc trưng của bộ môn Lịch sử mang tính quá khứ, bao gồm những sự kiện, hiện tượng đã xảy ra, nó tuân thủ theo tiến trình thời gian. Chúng ta phải tiếp nhận lịch sử một cách gián tiếp thông qua các tài liệu được lưu lại. Việc nhận thức lịch sử đối với học sinh có những nét đặc trưng, học sinh tiếp thu kiến thức lịch sử thông qua việc cung cấp các sự kiện tạo biểu tượng lịch sử của giáo viên trong mỗi giờ giảng mà không thể cho học sinh “trực quan sinh động” những sự kiện xảy ra. Bên cạnh đó, lịch sử mang tính không lặp lại về không gian và thời gian. Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra trong một không gian và thời gian nhất định, chỉ xảy ra một lần duy nhất. Không có một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào hoàn toàn giống nhau, dù có điểm giống nhau, lặp lại mà là sự kế thừa “lặp lại trên cơ sở không lặp lại”. Chính điều đó đã gây nên những trở ngại trong việc giáo viên cung cấp kiến thức cho học sinh nhớ sự kiện lịch sử. Lịch sử có tính cụ thể, là khoa học nghiên cứu tiến trình lịch sử cụ thể các nước,các dân tộc khác nhau và quy luật của nó, nên khi trình bày các sự kiện lịch sử rất cần phải cụ thể, sinh động. Đây cũng là một điểm khó của lịch sử, đòi hỏi giáo viên cần phải chú ý khi dạy học lịch sử, không chỉ học sinh biết đến thời gian một cách máy móc, tên địa danh, nơi xảy ra sự kiện, tên nhân vật làm nên sự kiện đó mà cần giúp các em hiểu các yếu tố đó đã chi phối, ảnh hưởng như thế nào đối với sự kiện, mỗi yếu tố đó đã có ý nghĩa quan trọng nhất đinh đối với những sự kiện có liên quan đã xảy ra. Khoa học lịch sử thể hiện tính hệ thống (tính lôgic lịch sử). Nội dung tri thức lịch sử rất phong phú, đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống loài người, gồm cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật…SGK lịch sử ở trường phổ thông đã bao quát được các mặt đó. Do vậy, khi giảng dạy người giáo viên phải luôn luôn chú ý đến mối liên hệ giữa các sự kiện hiện tượng, các vấn đề lịch sử để cung cấp cho học sinh những tri thức lịch sử mang tính hệ thống và hoàn chỉnh, đảm bảo sự thống nhất giữa “sử” và “luận”. Như vậy, qua tìm hiểu đặc trưng bộ môn Lịch sử đặc biệt là tính không lặp lại, đòi hỏi mỗi người giáo viên trong quá trình giảng dạy lịch sử phải tạo biểu tượng sinh động, hấp dẫn nhằm tái hiện lại quá khứ lịch sử. Một trong những biện pháp đó là việc sử dụng kênh hình để tạo biểu tượng không gian. Với biện pháp này giáo viên sẽ giúp học sinh nắm chắc, hiểu sâu kiến thức là cơ sở để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường phổ thông. 1.1.1.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh THPT Quá trình nhận thức của học sinh trong học tập nói riêng cũng như quá trình nhận thức của loài người nói chung bao giờ cũng đi từ hình ảnh cụ thể, trực tiếp, từ đơn giản đến khái quát. Những hình ảnh này thông qua quá trình cảm giác, tri giác của con người phản ánh và sự nhận thức tư duy. Quá trình nhận thức là một quy luật, quy luật này được phản ánh trong công thức nổi tiếng của Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức lý tính, nhận thức hiện thực khách quan” (32; 45). Tuy nhiên quá trình nhận thức của học sinh có những điểm khác với quá trình nhận thức của loài người. Nếu như quá trình nhận thức của loài người diễn ra theo con đường “mò mẫm” “thử sai” tức là khám phá những cái chưa biết, đi vào thế giới khách quan một cách độc lập, phát hiện và chứng minh những cái mà loài người chưa biết đến trong tự nhiên xã hội và tư duy để tìm ra những chân lý mới, quy luật mới, bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại, thì nhận thức của học sinh qua môn lịch sử không như vậy. Đó không phải là việc tìm ra cái mới, cái chưa biết mà các em phải tái tạo những tri thức lịch sử đã được thừa nhận, những tri thức khoa học, tạo cơ sở cho các em khôi phục lại bức tranh quá khứ. Nhận thức lịch sử của học sinh đi từ cơ sở ban đầu là nắm vững các sự kiện lịch sử. Nhưng do đặc trưng của môn lịch sử là không lặp lại, không thí nghiệm được, học sinh không thể quan sát trực tiếp sự kiện hiện tượng lịch sử được, chính vì thế học sinh dễ rơi vào tình trạng “hiện đại hóa lịch sử”. Để khắc phục điều này, giáo viên cần tạo cho học sinh một biểu tượng chân thực về quá khứ thông qua việc sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học. 1.1.1.4. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Việc đổi mới chương trình SGK hiện nay đặt ra yêu cầu bức thiết là phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Đảng ta đã tổng kết trong nghị quyết TW khóa VIII về hạn chế của giáo dục nước ta “Chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo còn thấp, trình độ kỹ thuật, năng lực thực hành, phương pháp tư duy khoa học, trình độ ngoại ngữ và thể lực của đa số học sinh còn yếu. Ở nhiều trường học sinh ra trường khả năng vận dụng kiến thức vào sản xuất và đời sống còn hạn chế” (34; 26). Trong đó, kĩ năng thực hành và vận dụng kiến thức vào thực tiễn của học sinh còn yếu. Qua tìm hiểu, so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, mặt bằng kiến thức ở trường phổ thông của chúng ta không thua kém gì họ, thậm chí còn hơi nặng và học sinh ta khi đua tài chất xám trong các kỳ thi quốc tế cũng khẳng định được thứ hạng cao. Nhưng chúng ta lại thua họ ở kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức khoa học và năng lực hoạt động độc lập. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do: “Phương pháp giáo dục đào tạo còn chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Giáo dục - đào tạo chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường chưa gắn liền với gia đình và xã hội” (33; 26). Vài năm gần đây, tại các trường phổ thông đã tiến hành đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng học tập. Song, qua tìm hiểu việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học lịch sử nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, còn tồn tại những nhược điểm cơ bản như: Nhiều giáo viên chưa nhận thức được vai trò của việc kết hợp các phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực độc lập nhận thức của học sinh trong học tập nên chưa khắc phục hoàn toàn những yếu kém cố hữu trong giảng dạy. Họ chưa nắm rõ về quan điểm đổi mới phương pháp và khi vận dụng lại mang tính hình thức, rườm rà, cứng nhắc. Giờ học vì thế trở nên khô khan, căng thẳng khi giáo viên liên tục hỏi đáp cho học sinh và cho rằng như vậy đó là đổi mới phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học một chiều thầy đọc trò ghi làm hạn chế năng lực nhận thức độc lập, chủ động lĩnh hội kiến thức của các em, không phù hợp với đặc điểm tâm lý nhận thức của học sinh THPT vẫn tồn tại. Nội dung SGK và cách bên soạn đổi mới, song giáo viên chưa có đủ độ sâu về kiến thức để hướng dẫn học sinh tìm ra những kiến thức chìm trong SGK. Đặc biệt nhiều giáo viên lịch sử chưa hiểu hết nội dung kênh hình, nên bỏ qua hoặc hiệu quả sử dụng chưa cao… Những hạn chế đó không thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học hiện nay, cũng như không hoàn thành mục tiêu giáo dục đã đề ra. Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu bức thiết phải đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng việc đổi mới về nội dung và mục tiêu giáo dục đặt ra. Nghị quyết hội nghị TW II, khóa VIII đã chỉ rõ ban chất của đổi mới phương pháp “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp dạy học vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”. (34; 46). Với sự định hướng như trên, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử là rất cần thiết. Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng là khuyến khích chúng ta chuyển từ mô hình dạy học lấy “giáo viên làm trung tâm” sang dạy học lấy “học sinh làm trung tâm”. Bản chất của dạy học lấy “học sinh làm trung tâm” chính là phát huy một cách cao nhất tính tích cực, độc lập nh