Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may tại công ty dệt kim Đồng Xuân

Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều phải tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy đủ những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước có tầm quan trọng hơn bao giờ hết. ở nước ta,

doc106 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may tại công ty dệt kim Đồng Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu 1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài. Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều phải tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy đủ những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước có tầm quan trọng hơn bao giờ hết. ở nước ta, Khi xác định những quan điểm lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới” . Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm qua thương mại Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước ta và vị thế mới trên thị trường quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ ngoại giao với nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC ...và đang từng bước tiến tới việc ra nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này đã đặc biệt làm cho lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay càng trở nên sôi động. Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, phải kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai, nhưng đây là mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Hơn nữa, với điều kiện tình hình nước ta hiện nay, tập trung phát triển hàng dệt may là hoàn toàn phù hợp. Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài “mot so bien phap thuc day xuat khau hang det may tai cong ty det kim dong xuan ” góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra là quan trọng và hết sức cần thiết. 2. Mục đích nghiên cứu. Trong thời gian gần đây, tình hình xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam nói chung và công ty Dệt Kim Đông Xuân nói riêng gặp nhiều trở ngại. Nguyên nhân là do tình hình thị trường tài chính và tiền tệ trên thế giới có nhiều biến động khiến cho đầu tư giảm sút dẫn đến các công ty xuất khẩu hàng dệt may thiếu vốn lưu động. Mặt khác cơ sở vật chất, các trang thiết bị kĩ thuật của ngành dệt may còn thấp so với mặt bằng chung trên thế giới cũng ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu nhất là sang các thị trường đòi hỏi hàm lượng chất xám cao như EU, Nhật Bản... Bên cạnh đó, thị trường EU do hạn chế quota, sức mua của thị trường Nhật Bản giảm sút do đồng Yên mất giá nên hàng dệt may phần thì không có chỗ để xuất, phần xuất được thì giá xuất thấp hơn so với các năm trước. Sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc cũng là một nhân tố khiến cho khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vài năm qua liên tục sút giảm. Những vấn đề cấp bách trên thôi thúc khiến cần phải đưa ra những biện pháp nhằm góp phần cải thiện tình hình xuất khẩu hàng dệt may ở công ty Dệt Kim Đông Xuân nói riêng và Việt Nam nói chung. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng được nghiên cứu trong đề tài này là tình hình hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân và các yếu tố khác có liên quan như công nghệ sản xuất sản phẩm, mẫu mã hàng xuất khẩu... nhằm đưa ra một số biện pháp thúc đấy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân. Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của công ty nói riêng và Việt Nam nói chung qua các năm từ 1998-2002 nhằm tìm ra các yếu tố chủ quan và khách quan làm sụt giảm doanh số xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân. 4. Phương pháp nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong đề tài là các phương pháp điều tra thống kê như dãy số thời gian, thu thập số liệu thống kê, phân tổ số liệu...cũng như các phương pháp nghiên cứu kinh tế, xã hội khác rồi so sánh, phân tích để tìm ra nguyên nhân làm suy giảm hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân rồi từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động này. 5. Kết cấu của đề tài. Nội dung đề tài chia làm ba chương : Chương I : Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may ở công ty Dệt Kim Đông Xuân. Chương III : Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân. Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thành đề tài, tôi đã được sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình, chi tiết của thầy giáo - Tiến sĩ Nguyễn Thừa Lộc, sự giúp đỡ nhiệt tình của các bác, các cô, các chú trong công ty Dệt Kim Đông Xuân. Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung để những biện pháp trong đề tài này có thể góp phần giải quyết tình trạng hiện nay của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may tại công ty Dệt Kim Đông Xuân. Chương I Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. I. khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu. 1. Khái niệm. Xuất khẩu hàng hoá hiểu theo phạm trù kinh tế có nghĩa là hoạt động kinh doanh hàng hoá giữa hai bên tham gia hoạt động kinh doanh có quốc tịch khác nhau, ngôn ngữ cũng khác nhau cũng như khác nhau về văn hoá, chính trị... hiểu theo phạm vi địa lý, hoạt động xuất khẩu hàng hoá có nghĩa là quá trình hàng hoá và tiền tệ di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác được sự cho phép và đồng ý của chính quyền các nước. Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này. 2. Các hình thức xuất khẩu. 2.1. Xuất khẩu uỷ thác. Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thu lao trả cho đại lý. Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu không cao hơn 1% của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện FOB tại Việt Nam. Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác: -Ưu điểm: Công ty nhận uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh, tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của Công ty. -Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh doanh thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và khách hàng bị thu hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và tìm khách hàng. 2.2 Xuất khẩu trực tiếp. Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được lợi ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công việc: Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương pháp tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu nại (nếu có). Ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp: -Ưu điểm: Với phương thức này, đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh doanh, tự mình có thể thâm nhập thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu thị trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản phẩm, nhãn hiệu ... dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới. - Nhược điểm: Trong điều kiện đơn vị mới tham gia kinh doanh thì áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn chế, thông tin về thương trường quốc tế còn ít, uy tín nhãn hiệu sản phẩm còn xa lạ với khách hàng quốc tế. 2.3. Gia công hàng xuất khẩu. Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao ( gọi là chi phí gia công). Tóm lại, gia công xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt hàng, nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do hoạt động gia công đem lại. Vì vậy, suy cho cùng, gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao động, nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng(được thể hiện trong hàng hoá) chứ không phải dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài. Gia công xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế. Hoạt động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên đặt gia công và bên nhận gia công. 3. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân. 3.1. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp. Đối với bản thân các doanh nghiệp mà nói thì hoạt động xuất khẩu hàng hoá đem lại những lợi ích không thể phủ nhận. Song song với việc thực hiện kinh doanh trong thị trường nội địa thì hoạt động xuất khẩu hàng hoá góp phần quan trọng vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Xuất khẩu hàng hoá giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, phát triển sản xuất, kinh doanh. Thị trường quốc tế luôn là một thị trường có nhu cầu và tiềm năng lớn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Việc tham gia vào hoạt động xuất khẩu hàng hoá giúp các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng được thị trường của mình đồng nghĩa với việc tăng được doanh thu góp phần quan trọng quyết định đến sự thành công trong kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường thì đứng yên đồng nghĩa với sự đào thải chỉ có luôn phát triển mới có thể tồn tại. Yêu cầu tồn tại và phát triển luôn đem đến cho các doanh nghiệp sự đòi hỏi phải tham gia vào nền kinh tế thế giới. Bởi vậy, xuất khẩu hàng hoá giúp các doanh nghiệp có thể tự khẳng định mình trên thị trường. Xuất khẩu hàng hoá đem lại nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhằm thực hiện nhập khẩu. Để có thể sản xuất – kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp luôn cần phải nhập khẩu nguyên vật liệu cũng như máy móc thiết bị hiện đại từ nước ngoài. Hoạt động xuất khẩu đem lại nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp để phục vụ hoạt động nhập khẩu. Thực hiện xuất khẩu giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho người lao động. Việc xuất khẩu hàng hoá đem lại doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp nhưng đồng thời cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Vì vậy đồng nghĩa với hoạt động mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh là tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện mức sống của người lao động. Thực hiện xuất khẩu hàng hoá giúp doanh nghiệp tiếp thu được các công nghệ sản xuất tiên tiến trên thế giới. Tham gia vào thương mại quốc tế giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc và ứng dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến vào sản xuất-kinh doanh. Doanh nghiệp muốn xuất khẩu được hàng hoá thì phải đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị máy móc cho phù hợp với yêu cầu của nhà nhập khẩu, hoặc nhà nhập khẩu sẽ cung cấp công nghệ sản xuất tiên tiến cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp tiến hành sản xuất phục vụ xuất khẩu. 3.2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân. Xuất khẩu hàng hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào, phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động, còn những yếu tố thiếu hụt là vốn, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kĩ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách với các nước giàu. Như vậy đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng thể hiện: Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng cho nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về, mà là với mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu (xuất khẩu > nhập khẩu), tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn nhu cầu nhập khẩu trong tương lai). Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau, xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu. Muốn nhập khẩu, chúng ta phải có ngoại tệ, có các nguồn ngoại tệ sau: - Xuất khẩu hàng hoá. dịch vụ. - Viện trợ, đi vay, đầu tư .... - Liên doanh đầu tư nước ngoài với ta. - Các dịch vụ thu ngoại tệ: ngân hàng, du lịch ... Có thể thấy rằng, trong các nguồn trên thì xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là nguồn quan trọng nhất vì: nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời là khả năng bảo đảm trả được các khoản đi vay, viện trợ ... trong tương lai. Như vậy cả về dài hạn và ngắn hạn, xuất khẩu luôn là câu hỏi quan trọng cho nhập khẩu. Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của đất nước. Để xuất khẩu được, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải lựa chọn được những ngành nghề, mặt hàng có tổng chi phí (chi phí sản xuất và chi phí xuất khẩu) nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ phải dựa vào những ngành hàng, những mặt hàng khai thác được các lợi thế của đất nước cả về tương đối và tuyệt đối. Ví dụ như trong các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của ta thì dầu mỏ, thuỷ sản, gạo, than đá là những mặt hàng khai thác lợi thế tuyệt đối nhiều hơn (vì chỉ một số nước có điều kiện để sản xuất các mặt hàng này). Còn hàng may mặc khai thác chủ yếu lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ. So sánh tiền lương bình quân của công nhân may các nước Châu á STT Nước Lương (USD/tháng) 1 Việt Nam 30 2 Indonesia 83 3 Malayxia 100 4 Singapore 120 5 Hồng Kông 415 6 Hàn Quốc 612 7 Đài Loan 767 Tuy nhiên, phân biệt lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh chỉ mang ý nghĩa tương đối. Các lợi thế cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi dào, cần cù, giá thuê rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và địa thế địa lý đẹp. Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng và phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa dạng và xuất khẩu mũi nhọn. Xuất khẩu đa dạng: là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm thu được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy mô, chất lượng thấp (vì không được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả. Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Xuất khẩu hàng mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu ngành và cả cơ cấu trong nội bộ một ngành theo hướng khai thác tối ưu lợi thế so sánh của đất nước. Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ ở mức chất lượng cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp đủ mạnh ở mỗi nước mới tham gia thị trường thế giới. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để tồn tại và phát triển. Hiện nay, đây là hướng xuất khẩu chủ yếu của nước ta, có kết hợp với xuất khẩu đa dạng để tăng thu ngoại tệ. Toàn bộ các tác động trên làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng theo hướng tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập và tăng mức sống. Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần thêm lao động, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế lao động nhiều, giá rẻ ở nước ta. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú và tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Chính vì thế mà chúng ta chủ trương phát triển ngành nghề cần nhiều lao động như ngành may mặc. Với một đất nước gần 80 triệu dân, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao thì đây là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện nước ta hiện nay. Hoạt động xuất khẩu mở rộng và tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán, là một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế của một nước: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Cao hơn nữa là xuất siêu, tăng tích luỹ ngoại tệ, luôn đảm bảo khả năng thanh toán với đối tác, tăng được tín nhiệm. Qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam được bầy bán trên thị trường thế giới, khuyếch trương được tiếng vang và sự hiểu biết. Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn, làm tiền đề thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch vụ du lịch, ngân hàng, đầu tư, hợp tác, liên doanh... Tóm lại : thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước. Cho đến nay, tuy chưa lâu và cũng chưa nhiều, song chúng ta cũng thấy được những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương mại, giao lưu kinh tế với nước ngoài, với trọng tâm là xuất khẩu. Nước ta đã từng bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất bằng những công nghệ, khoa học tiên tiến. Tin tưởng rằng với hướng đi đúng đắn, với những ưu thế của mình và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, Việt Nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng trong nền kinh tế thế giới. II. Nội dung hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. 1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường là một trong những việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hóa cụ thể thông qua sự biến động nhu cầu, mức cung ứng, giá cả thị trường từ đó đáp ứng nhu cầu của thị trường. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu nhập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân tích số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó
Tài liệu liên quan