Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới

Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển, hàng hoá đã được lưu thông rộng rãi trong các khu vực, các nước khác nhau trên thế giới. Chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh tế. Các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam luôn tìm kiếm cho mình những cơ hội kinh doanh mới nhằm thu được lợi nhuận tối đa, đồng thời bảo đảm được các mục tiêu an toàn và thế lực cho doanh nghiệp.

doc40 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển, hàng hoá đã được lưu thông rộng rãi trong các khu vực, các nước khác nhau trên thế giới. Chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh tế. Các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam luôn tìm kiếm cho mình những cơ hội kinh doanh mới nhằm thu được lợi nhuận tối đa, đồng thời bảo đảm được các mục tiêu an toàn và thế lực cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, để thực hiện tất cả các mục tiêu đó không phải là điều đơn giản, đôi khi phải trả những cái giá rất đắt, thậm chí có thể thất bại dẫn đến phá sản. Nghiên cứu vấn đề này, nhiều nhà kinh tế cho thầy rằng sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp trên thương trường phụ thuộc rất lớn vào chiến lược cạnh tranh mà họ đã đề ra. Đã biết rằng, kinh tế thị trường không chỉ là chiếc “nôi” cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn là một “đấu trường”. Trên thị trường luôn diễn ra sự cạnh tranh gay go khốc liệt giữa các doanh nghiệp nhằm giành lấy khách hàng. Tìm được các bí quyết để cạnh tranh có hiệu quả là tìm ra bí quyết của sự tăng trưởng, quyết định vận mệnh của doanh nghiệp . Công cuộc CNH,HĐH đất nước đã đem lại cho nền kinh tế nước ta một sinh khí mới và trong đó có ngành công nghiệp dệt may với những động lực và hướng phát triển mới. Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam , với vai trò vừa cung cấp hàng hoá trong nước vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm trên thị trường thế giới, và cũng là ngành có lợi tức tương đối cao. Chỉ trong 3 năm 1995-1997, giá trị tổng sản lượng của ngành dệt may đã tăng lên 20,3%, trong đó ngành dệt tăng 11,7% ngành may tăng 38,3% so với mức 29.3% của giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp. Sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt 1349 triệu USD, chiếm 15,2 % tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và chiếm trên 70% trong tổng giá trị xuất khẩu của hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên, liệu mặt hàng dệt may của nước ta cũng như toàn ngành dệt may tới đây có tiếp tục duy trì được tốc độ phát triển trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của nước ta hay không ? Vấn đề này chỉ có thể giải đáp dựa trên cơ sở những kết quả nghiên cứu dự báo về triển vọng thị trường thế giới mặt hàng này cũng như lợi thế và năng lực phát triển ngành dệt may của Việt Nam. Những biến động trên thị trường thế giới trong thời gian qua đã tác động mạnh mẽ đến thị trường dệt may nói chung và ngành dệt, may nói riêng càng làm cho việc nghiên cứu về thị trường hàng dệt may trở nên cấp thiết. Nhằm phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn của hàng dệt may Việt Nam, trên cơ sở đó xác lập những căn cứ khoa học để dự báo khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam cũng như đề xuất một số chính sách, giải pháp hỗ trợ cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may trong nước thời gian tơí. Trước những vấn đề đó, với sự khuyến khích của thầy giáo hướng dẫn, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới”. Đề tài này tập trung nghiên cứu những biến động thị trường dệt may trong những năm qua, triển vọng hàng dệt may, khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới... Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau : Chương I: Vai trò và đặc điểm của ngành Dệt may Việt Nam Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam Chương III: Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Đây là một đề tài với nội dung nghiên cứu rộng nên không tránh khỏi những thiếu xót. Hy vọng sẽ nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để đề tài nghiên cứu này được hoàn chỉnh hơn . Xin chân thành cảm ơn ! Chương I vai trò và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam I. Vai trò. Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách địng hướng xuất khẩu của đất nước, và nói một cách chung hơn, là một trong những nỗ lực của Việt Nam để hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế. Công nghiệp dệt may tất yếu là một trong các ngành chủ yếu xuất khẩu trong giai đoạn đầu phát triển của các nước, xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh. Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn. Sự thất bại về xuất khẩu của ngành này bao giờ cũng là triệu chứng của những trở ngại có tính thâm căn cố đế trong nước và sự bất lực, không phát huy được lợi thế so sánh tiềm năng. Quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước, trong giai đoạn phát triển dệt may thường đóng vai trò chủ đạo, nó có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho phát triển các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội. Ngành dệt may là ngành có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành công nghiệp khác, khi dệt may là một trong những ngành hàng đầu của nền kinh tế nó sẽ cần một lượng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế sẽ tạo điều kiện để đầu tư phát triển các ngành công nghiệp này. Tại các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt như bông, đay, tơ tằm và là phương tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, ở các nước công nghiệp phát triển, công nghiệp dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, dáp ững nhu cầu ngày càng cao, đa dạng, phong phú của người tiêu dùng. II. Đặc điểm Công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam khoảng một thế kỷ nay, còn những hoạt động thủ công truyền thống như thêu thùa, đan lát... thì đã có từ lâu. Theo nột số tài liệu ghi chép thì sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt may này bắt đầu từ khi khu công nghiệp dệt Nam Định được thành lập vào năm 1889. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp này phát triển nhanh hơn, đặc biệt là ở miền Nam, tại đây các hãng dệt may với máy móc hiên đại của Châu Âu đã được thành lập. Trong thời kỳ này tại miền Bắc, các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng thiết bị Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu, cũng đã được thành lập. Mặc dù từ những năm 1970 sau khi thực hiện công cuộc đổi mới thì thời kỳ phát triển quan trọng hướng về xuất khẩu mới bát đầu. Vì vậy, công nghiệp dệt may có những đặc điểm sau. -Về tiêu thụ: Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt may có những đặc trưng riêng biệt ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Nghiên cứu những đặc trưng riêng biệt của thương mại thế giới hàng dệt may là một trong những yếu tố quan trọng cần thiết ddể tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm và đảm bảo xuất khẩu thành công trên thị trường quốc tế. Một số đặc trưng đó là: +Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tượng tiêu dùng - người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác... sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu tiêu dùng của từng nhóm người trong các bộ phận thị trường khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm. +Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng được nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng. Do đó để tiêu thụ được sản phẩm, việc am hiểu các xu hướng thời trang là rất quan trọng. +Vấn đề nhã mác cũng là một trong những đặc trưng nổi bật trong buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo được nhãn hiệu hàng hoá của riêng mình. Nhãn hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thường là yếu tố chứng nhận chất lượng hàng hoá và uy tín của người sản xuất, đây là vấn đề quan tâm trong chiến lược của sản phẩm vì người tiêu dùng không chỉ tính đến giá cả mà còn rất coi trongj chất lượng sản phẩm. +Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ. Phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trường mà cung cấp hàng hoá cho phù hợp. Điều này cũng liên quan đến thời hạn giao hàng. Thói quen tiêu dùng cũng là một đặc điểm cần lưu ý trong buôn bán hàng dệt may vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề tìm thị trường tiêu thụ chio sản phẩm. -Về sản xuất: Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, vốn đầu tư ban đầu không quá lớn nhưng lại có tỷ lệ lãi cao. Chính vì vậy, sản xuất dệt may thường phát triển mạnhvà có hiệu quả rất lớn đối với các nước đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, khi một nước trở thành nước công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt may giảm thì họ lại vươn tới những ngành công nghiệp khác có hàm lượng kỹ thuật cao, tốn ít lao động và đem lại nhiều lợi nhuận. Công nghiệp dệt may lại phát huy vai trò của mình ở các nước kém phát triển hơn. Lịch sử phát triển của ngành dệt may thế giới cũng là lịch sử chuyển dịch của công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do sự chuyển dịch về lợi thế so sánh. Như vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở những nước công nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Trong những năm gần đây, sản xuất dệt may của Việt Nam đã có những tiến bộ nhất định và đang cố gắng để hoà nhập với lộ trình của ngành dệt may thế giới. -Về thị trường: Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt chẽ. Trước khi Hiệp định về hàng dệt may - kết quả quan trọng của vòng đàm phán Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may được điều chỉnh theo các thể chế thương mại đặc biệt và nhờ đó phần lớn các nước nhập khẩu thiết lập các hạn chế số lượng để hạnh chế hang dệt may nhập khẩ. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với các hàng hoá công nghiệp khác. Tất cả những rào cản đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới. Chương II Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam I. Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam Theo ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 1999 có thể đạt 1650 – 1700 triệu USD, tăng 22% so với năm 1998. Với tốc độ phát triển của ngành dệt may như hiện nay thì việc đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1900 – 2000 triệu USD vào năm 2000 là có thể trở thành hiện thực Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 40 nước trên thế giới Trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm 34% đến 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Trong 9 tháng đầu năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường hạn ngạch chiếm khoảng 39% tăng hơn 3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó kim ngạch sang EU chiếm tới 80% trong tổng thị trường có hạn ngạch. Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phát triển ngành dệt may nước ta, thể hiện rõ trong kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU liên tục tăng trong giai đoạn 1993-1997 (tốc độ tăng bình quân hơn 20%/năm), tiếp đến là hiệp định buôn bán dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1998 – 2000 được ký kết ngày 17/11/1997 cho phép nâng hạn ngạch dệt may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm 1993-1997 với mức tăng trưởng 3%-6%/năm Từ 1995 trở lại đây, trong những thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam, loại thị trường cần hạn ngạch gồm có 10 nước, trong đó có 9 nước thuộc EU. Những nước trong EU nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40%-45%), Pháp (12%-14%), Anh (7%-9%), Hà Lan (10%-14%), Bỉ (4%-5%), Italia (6%-7%)... Trong những năm qua, thực trạng của ngành dệt may Việt Nam được tổng hợp qua ngững vấn đề sau: 1. Về sản lượng. Số liệu có được chỉ ra rằng ngành công nghiệp dệt may chiếm khoảng 9% tổng sản lượng công nghiệp năm 1996, thấp hơn năm 1990. Mặc dù ngành dệt may đang tăng rất chậm, tỷ lệ ngành dẹt trong tổng sản lượng của ngành công nghiệp (6,1%) lớn hơn ngành may (2,7%). Ngoài ra số liệu cũng cho thấy sản lượng sợi tăng chậm, mặc dù sản lượng năm 1996 thấp hơn năm 1990, sản lượng vải thể hiện một xu hướng cũng không sáng sủa, và bắt đầu từ năm 1993 sản lượng đã tăng lên một cách rõ rệt nhưng đến năm 1996 cũng chỉ đạt 75% của năm 1985 và chỉ bằng 90% của năm 1990. Sản lượng ngành may tăng vững chắc hơn, mặc dù tốc đọ tăng thấp hơn so với tỷ lệ tăng trưởng được thể hiện thông qua các số liệu xuất khẩu (xem bảng 1) Bảng 1: Sản lượng của ngành dệt may 1991-1997. Mặt hàng 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 -Số liệu về sản lượng sản phẩm. Sợi (1000 tấn) 40 44 38 44 50 57 Vải (triệu mét) 180 272 215 228 221 281 Quần áo (triệu cái) 100 104 91 121 127 200 -Giá trị tổng sản lượng (tỷ đồng- giá cố định) Dệt 2.859 3.800 5.278 6.853 9.361 10518 11317 May 585 700 1.350 3.411 3.411 4.270 5.125 2. Đầu tư nước ngoài : Từ năm 1998, sau khi Việt Nam bước đầu thực hiện tự do hai chính sách về FDI, các dự án đầu tư nước ngoài được phê duyệt tăng lên nhanh chóng. Từ năm 1993 trở lại đây, đầu tư nước ngoài đạt trên 100 triệu USD/năm, nhưng năm 1997 và năm 1998 nguồn vốn này đã giảm. Hình thức 100% sở hữu nước ngoài đã hấp dẫn các nhà đầu tư. Kéo sợi, dệt vải và may mặc được coi là những bộ phận chính thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Các nước và vùng lãnh thổ Đông á là những nhà đầu tư chủ yếu, trong đó lớn nhất là Hàn Quốc, Malaysia, và Đài Loan chiếm 90% tổng đầu tư vào ngành dệt may. Sau 10 năm ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài, tính đến cuối năm 1998, 178 dự án dệt may được cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký là 1.794,65 triệu USD, trừ 33 dự án đã giải thể trước thời hạn còn 145 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư là 1.628,192 triệu USD. Trong đó: +Ngành dệt: Trừ 12 dự án đã bị giải thể, ngành dệt có 61 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 1.47,88 triệu USD, trong đó có 30 dự án sản xuất sợi, dệt vải, dệt kim ; 10 dự án dệt vải lớn, đầu tư đồng bộ từ sản xuất vải tới in , nhuộm hoàn tất; 3 dự án dệt tơ tằm, lụa; 3 dự án nhuộm; 4 dự án dệt khăn bông và 11 dự án dệt len, thảm. Trong các dự án trên có 40 dự án ( chiếm 66% so với tổng số dự án ) đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư 1.431,11 triệu USD, gồm 5 dự án đang xây dựng cơ bản và 35 dự án đã đưa vào hoạt động . Về hình thức đầu tư, số dự án 100% vốn nước ngoài có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây, trong khi số dự án theo hình thức hợp tác kinh doanh trền cơ sở hợp đồng giảm đi. Nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là Hàn Quốc với 16 trong 40 dự án đang hoạt động và tổng số vốn đầu tư lên tới677,268 triệu USD; Malaysia – 4dự án với tổng số vốn đầu tư 477,134 triệu USD, Đài Loan 11 dự án với số vốn đầu tư 137,162 triệu USD, các dự án dệt phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam – 37 trong tổng số 40 dự án đang hoạt động, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh 13 dự án với vốn đầu tư 723,429 triệu USD, và Đồng Nai- 9dự án với vốn đầu tư 735,875 triệu USD. Ngành may mặc : trừ 21 dự án đang xây dựng cơ bản, 47 dự án đã đi vào sản xuất, còn lại đang làm thủ tục xây dựng cơ bản. Ngành may không có hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng mà chỉ theo hai hình thức – Liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Với ưu thế đầu tư của 17 nước, trong đó có Đài Loan đứng đầu với 23 dự án với tổng số vốn đầu tư 56,43 triệu USD, Hàn Quốc 14 dự án với tổng số vốn đầu tư là 21,843 triệu USD, Nhật Bản 10 dự án với tổng số vốn đầu tư 20,374 triệu USD, Hồng Kông 11 dự án với số vốn đầu tư 19, 206 triệu USD, Đức 4 dự án với vốn đầu tư 29,058 triệu USD. Các dự án may cũng nằm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, trong đó thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu với 40 dự án với tổng số vốn đầu tư 104, 397 triệu USD; Đồng Nai 12 dự án với tổng số vốn đầu tư 36,679 triệu USD; Bình Dương 8 dự án với số vốn đầu tư 16,2 triệu USD... 3. Về thiết bị Ngành dệt hiện có 868.000 cọc sợi, cả sợi bông và sợi pha (bông pha với xơ PE) với chỉ số Nm (Chỉ số Quốc tế ) tử sợi Nm10 đến Nm102 bao gồm cả sợi chải kỹ, 43200 máy dệt, trong đó các xí nghiệp Quốc doanh T.W quản lý 11000 máy, xí nghiệp Quốc doanh địa phương - 3200 máy và Hợp tác xã tư nhân 29000 máy, các thiết bị nhuộm hoàn tất có thể nhuộm 450 m / năm với các loại vải từ nguyên liệu dệt khác nhau và các công nghệ nhuộm cũng như công nghệ in hoa khác nhau, các thiết bị dệt kim có thể sản xuất 20900 tấn sản phẩm / năm, bao gồm 19500 tấn dệt kim tròn / năm và 1400 tấn dệt kim dọc/năm . Tuy nhiên, phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng bộ giữa các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi phần lớn lại là máy dệt thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu thị trường... Về thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng bình quân thấp chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu phần lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao. Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy 8322 của Đức đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên dùng cũng tăng lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và của chủng loại mặt hangf như máy vắt năm chỉ, máy thùa đính, trần dầy pasant, may cạp bốn kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân không ... Trong từng công đoạn sản xuất may cũng được trong bị thêm máy mọc mới với tính năng công dụng mới nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm trên mỗi công đoạn của chu trình sản xuất. Về công nghệ: Trong một số năm gần đây đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng công nghệ bông chải liên hợp tự động cao, các máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng các kỹ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra chất lượng sợi, trong khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị xe, hấp, giảm trọng lượng... nhiều sản phẩm giả tơ, giả len, sản phẩm từ microfiber đã bắt đầu dc sản xuất và tạo uy tín trên thị trường: trong khâu dệt kim, do phần lớn máy móc được nhập chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức... thuộc thế hệ mới, nhiều chủng loại đã được trang bị Computer đạt năng suất chất lượng cao, tính năng sử dụng rộng, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng nên mặt hàng còn đơn điệu, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Trong lĩnh vực may, công nghệ đã có những chuyển biến khá kịp thời. Các dây chuyền may được bố trí vừa và nhỏ ( 25-26 máy ) , sử dụng 34-38 lao động cơ động nhanh và có nhân viên kiểm tra thường xuyên, có khả năng chấn chỉnh sai xót ngay cũng như thay đổi mã hàng nhanh. Khâu hoàn tất được trang bị các thiết bị là hết diện tích, đóng túi, súng bắn nhãn, máy dò kim... Công nghệ tin học đã được đưa vào một số khâu thiết kế ở một số công ty lớn. 4. Về lương Đầu những năm 1990 mức lương trong ngành công nghiệp dệt là một trong những mức lương thấp nhất ở các nước Châu á . Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ lương ở Việt Nam đã tăng (lương trung bình là 58USD / tháng ), cao hơn Trung Quốc. Gần đây, sự giảm giá của một số đồng tiền tại Đông Nam á làm cho mức lương của một số nước trở nên thấp hơn mức lương của Việt Nam, đặc biệt năm 1998 mức lương của
Tài liệu liên quan