Bước vào những năm đầu của thiên niên kỷ mới, hoạt động khoa học và công
nghệ (KH&CN) thế giới có những bước phát triển vượt bậc. Đổi mới và hợp tác
KH&CN là hai xu thế chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế to àn cầu và
cũng là hai nhân tố tác động trực tiếp tới năng suất, việc l àm và nâng cao đời
sống của nhân loại.
Sau những năm bản lề, 2003 -2007 có thể coi là giai đoạn mở màn cho sự
phát triển KH&CN trong thập niên đầu của thiên niên kỷ mới. Những bước phát
triển của KH&CN giai đoạn này là nền tảng để đưa KH&CN thế giới phát triển
lên một tầm cao mới ở những thập niên tiếp theo.
Nhận thức được tầm quan trọng của những xu thế mới n ày, nhiều quốc gia
trên thế giới đã và đang nỗ lực đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động KH&CN, đồng
thời cónhững quyết sách mạnh mẽ như ưu đãi về thuế, chương trình phát triển
nguồn nhân lực KH&CN nhằm thúc đẩy các hoạt động KH&CN.
Để giúp bạn đọc có thêm thông tin về những vấn đề trên, Trung tâm Thông tin
KH&CN Quốc gia biên soạn và xuất bản Tổng quan: "MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ
SỐ LIỆU VỀ HOẠT ĐỘNG KH&CN THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2003-2007".
Đây là những vấn đề có tính toàn cầu rất rộng lớn, nên trong quá trình tổ chức
thu thập tài liệu, xử lý không tránh khỏi những mặt hạn chế, rất mong bạn đọc
chia sẻ và thông cảm.
52 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số đánh giá và số liệu về hoạt động khoa học và công nghệ thế giới giai đoạn 2003-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1LỜI GIỚI THIỆU
Bước vào những năm đầu của thiên niên kỷ mới, hoạt động khoa học và công
nghệ (KH&CN) thế giới có những bước phát triển vượt bậc. Đổi mới và hợp tác
KH&CN là hai xu thế chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu và
cũng là hai nhân tố tác động trực tiếp tới năng suất, việc làm và nâng cao đời
sống của nhân loại.
Sau những năm bản lề, 2003 - 2007 có thể coi là giai đoạn mở màn cho sự
phát triển KH&CN trong thập niên đầu của thiên niên kỷ mới. Những bước phát
triển của KH&CN giai đoạn này là nền tảng để đưa KH&CN thế giới phát triển
lên một tầm cao mới ở những thập niên tiếp theo.
Nhận thức được tầm quan trọng của những xu thế mới này, nhiều quốc gia
trên thế giới đã và đang nỗ lực đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động KH&CN, đồng
thời có những quyết sách mạnh mẽ như ưu đãi về thuế, chương trình phát triển
nguồn nhân lực KH&CN nhằm thúc đẩy các hoạt động KH&CN.
Để giúp bạn đọc có thêm thông tin về những vấn đề trên, Trung tâm Thông tin
KH&CN Quốc gia biên soạn và xuất bản Tổng quan: "MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ
SỐ LIỆU VỀ HOẠT ĐỘNG KH&CN THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2003- 2007".
Đây là những vấn đề có tính toàn cầu rất rộng lớn, nên trong quá trình tổ chức
thu thập tài liệu, xử lý không tránh khỏi những mặt hạn chế, rất mong bạn đọc
chia sẻ và thông cảm.
Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia
2I. BỨC TRANH HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN (R&D)
CỦA THẾ GIỚI 2003-2007
1.1. Đầu tư cho R&D và tri thức của các nước
Trong những năm qua, đầu tư cho tri thức ở nhiều nước trên thế giới đã tăng mạnh.
Đầu tư cho tri thức được xác định là tổng chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chi phí
cho giáo dục đại học (cả nhà nước và tư nhân) và đầu tư phát triển phần mềm. Nguồn
đầu tư này rất cần thiết cho đổi mới, phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân. Năm 2004, nguồn đầu tư cho tri thức chiếm 4,9% GDP của
các nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Các nước có mức đầu
tư cho tri thức cao hơn mức trung bình của các nước trong (OECD) là Mỹ (6,6%),
Thuỵ Điển (6,4%), Phần Lan (5,9%), Nhật Bản (5,3%) và Đan Mạch (5,1%) GDP.
Trong khi đó, các nước như Ai-len, Bồ Đào Nha và Hy Lạp đạt mức thấp hơn với các
tỷ lệ 2,5% GDP ở Ai-len và dưới 2% ở Bồ Đào Nha và Hy Lạp.
Hầu hết các nước OECD đều tăng cường đầu tư cho tri thức. Theo hầu hết các báo
cáo của các quốc gia, ngoại trừ Ai-len, mức đầu tư cho tri thức tính theo GDP đã cao
hơn trong năm 2004 (hoặc 2003) so với năm 1997. Hơn thế, Mỹ và Nhật là 2 nước có
mức đầu tư tăng đột biến so với EU.
Đầu tư cho máy móc và thiết bị (tỷ lệ % trong GDP) đã giảm, ngoại trừ ở một số
nước như: Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha và Áo. Đặc biệt hơn, cả Áo và Hy Lạp, đầu tư
cho máy móc và thiết bị cao hơn mức đầu tư cho tri thức. Đầu tư cho máy móc và thiết
bị chiếm khoảng 6,5% GDP của toàn bộ OECD. Năm 2004 (hoặc 2003), đóng góp
cho đầu tư dao động từ 6% (như ở Ai-len, Pháp) đến khoảng 9% (ở Nhật, Italia và Hy
Lạp).
Ở Mỹ và Bỉ, giáo dục đại học là lĩnh vực quan trọng trong việc mở rộng đầu tư cho
tri thức. Như ở Nhật Bản, Thuỵ Điển, Pháp, Hà Lan và Anh, tăng chi phí đầu tư cho
phần mềm là nguồn đầu tư chính cho việc gia tăng đầu tư cho tri thức. Bên cạnh đó,
R&D lại là nguồn đầu tư chính cho đầu tư cho tri thức ở các nước: Đan Mạch, Phần
Lan, Canađa, Tây Ba Nha, Đức, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Áo và Ôxtrâylia.
1.1.1. Xu hướng đầu tư cho R&D nội địa của các nước
Trong những năm gần đây, chi phí đầu tư cho R&D của khu vực OECD tăng đều
đặn, mặc dù mức tăng này vẫn chậm hơn so với nửa cuối những năm 90 của thế kỷ
trước. Tổng chi phí cho R&D tăng 4,6% hàng năm từ năm 1995 đến năm 2001, nhưng
chỉ tăng chưa đến 2,2%/năm trong giai đoạn 2001-2005. Năm 2005, chi phí cho R&D
của các nước OECD lên tới 771,5 tỷ USD (theo mãi lực tương đương-PPP), chiếm
khoảng 2,25% GDP của OECD.
Từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước, chi phí cho R&D tăng đều ở Mỹ, Nhật và
EU (khoảng 2,9%/năm). Tỷ lệ của 3 khu vực chính này trong tổng chi phí R&D của
OECD duy trì ổn định ở mức 42% (Mỹ), 30% (EU) và 17% (Nhật Bản) trong năm
2005. Nếu xét trên phạm vi thế giới, 3 khu vực này chiếm 37.7% (Mỹ), 24,1% (EU) và
12,7% (Nhật Bản) tổng chi phí cho R&D thế giới trong năm 2005 và có giảm nhẹ
trong năm 2007, với các mức 31,9%, 12,5% và 23,2% tương ứng (xem Bảng 1).
3Năm 2005, ở cả 2 khu vực Nhật và EU, chi phí đầu tư cho R&D tính theo GDP đã
tăng lên ngưỡng 3,2% và 1,8% sau đợt giảm mạnh năm 2004. Chi phí đầu tư R&D của
Mỹ giảm mạnh từ mức 2,76% (năm 2001) xuống 2,6% (năm 2006), nguyên nhân là do
mức tăng GDP của khu vực này mạnh hơn so với khu vực khác.
Năm 2005, Thụy Điển, Phần Lan và Nhật Bản là 3 nước duy nhất trong OECD có
tỷ lệ đầu tư cho R&D vượt quá 3% GDP, trong khi tỷ lệ đầu tư trung bình của OECD
là 2,2%. Trong số các quốc gia OECD, các nước đầu tư chi phí cho R&D tăng mạnh là
Ai-xơ-len, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai-len và Phần Lan kể từ năm 1995 với mức tăng hàng năm
trung bình vượt quá 7,5%.
Các nền kinh tế không thuộc OECD cũng là các nhà đầu tư R&D quan trọng. Ở mức 115
tỷ USD, chỉ số GERD (Gross domestic expenditure on R&D - chi tiêu nội địa ròng cho
R&D) của Trung Quốc năm 2005 mới chỉ đạt được ½ so với EU và đã tăng trên 18% từ
năm 2000. Chỉ số GERD cũng tăng mạnh ở Nam Phi (từ năm 1997 tới năm 2004 đạt 8,5%
hàng năm), trong khi GERD ở Nga đạt đến 16,7 tỷ USD năm 2005.
Bảng 1: Chi tiêu R&D ở một số quốc gia và khu vực
Chi tiêu R&D toàn cầu
GDP theo
mãi lực
2005, tỷ,
USD
Tỷ lệ
R&D/
GDP
2005, %
R&D theo
mãi lực
2005, tỷ,
USD
R&D theo
mãi lực
2006, tỷ,
USD
R&D theo
mãi lực
2007, tỷ,
USD
Châu Mỹ 15874 2,3 369,07 379,69 387,64
Mỹ 12192 2,6 319,60 328,90 335,50
Châu Á 19086 1,8 341,30 361,85 384,01
Trung Quốc (lục địa) 8859 1,4 124,03 136,30 149,80
Nhật 3890 3,2 124,48 127,84 131,29
Ấn Độ 3611 1,0 36,11 38,85 41,81
Châu Âu 12764 1,8 236,09 240,16 244,42
Đức 2388 2,5 59,68 60,21 60,75
Pháp 1879 2,2 41,36 42,10 42,86
Anh 1933 1,9 36,72 37,39 38,06
Các nước khác 2276 1,4 31,88 33,76 35,68
Thế giới 50002 2,0 978,34 1.015,46 1.051,75
Chiếm tỷ lệ R&D toàn cầu (%)
2005 2006 2007
Châu Mỹ 37,7 37,5 36,8
Mỹ 32,7 32,4 31,9
Châu Á 34,9 35,6 36,5
Trung Quốc 12,7 13,4 14,8
Nhật Bản 12,7 12,6 12,5
Ấn Độ 3,7 3,8 4,0
Châu Âu 24,1 23,6 23,2
Đức 6,1 5,9 5,8
Các nước khác 3,3 3,3 3,5
Thế giới 100,0 100,0 100,0
(Nguồn: Tạp chí R&D, OECD, World Bank)
4Bảng 2: Chi tiêu R&D của một số nước
Chi tiêu R&D toàn cầu
GDP theo
mãi lực
tương
đương
(PPP)
2005, tỷ,
USD
Mức tăng
trưởng
GDP
2004-
2005,
phần
trăm
Tỷ lệ
R&D
trên
GDP,
phần
trăm
R&D
theo mãi
lực tương
đương
(PPP)
2005, tỷ,
USD
R&D
theo mãi
lực tương
đương
(PPP)
2006, tỷ,
USD
R&D
theo mãi
lực tương
đương
(PPP)
2007, tỷ,
USD
Ôxtrâylia 629,1 2,5 1,7 10,70 11,00 11,29
Áo 265,2 1,9 2,3 6,10 6,22 6,34
Bỉ 330,7 1,5 1,9 6,93 7,08 7,25
Braxin 1556,0 2,4 1,0 24,44 25,03 25,63
Canađa 1033,9 2,9 2,0 10,66 21,26 21,88
Trung Quốc (Đại
lục)
8859,0 9,9 1,4 124,03 136,30 149,80
Trung Quốc (Đài
Loan)
631,5 3,0 2,2 13,89 14,42 14,97
Đan Mạch 175,0 3,4 2,6 4,55 4,66 4,77
Phần Lan 165,8 2,2 3,5 5,80 5,98 6,16
Pháp 1879,9 1,4 2,2 41,36 42,10 42,86
Đức 2388,6 0,9 2,5 59,68 60,21 60,75
Hungary 168,0 4,1 0,9 1,51 1,57 1,64
Ấn Độ 3611,0 7,6 1,0 36,11 38,85 41,81
Ai-len 152,3 4,7 1,1 1,68 1,75 1,84
Ixraen 154,5 5,2 4,5 6,95 7,31 7,69
Italia 1629,5 0,1 1,1 19,55 19,58 19,65
Nhật Bản 3890,0 2,7 3,2 124,48 127,84 131,29
Hàn Quốc 1051,5 3,9 2,6 27,33 28,39 29,50
Malaixia 290,2 5,3 0,7 2,03 2,14 2,25
Mêxicô 1092,1 3,0 0,4 4,37 4,50 4,63
Hà Lan 514,7 1,1 1,9 9,78 9,78 10,00
Na Uy 182,9 3,9 1,8 3,29 3,42 3,56
Ba Lan 508,4 3,2 0,6 3,05 3,15 3,25
Bồ Đào Nha 206,0 0,3 0,8 1,85 1,86 1,87
Nga 1589,0 6,4 1,3 20,66 21,98 23,30
Singapo 124,3 6,4 2,2 2,73 2,91 3,10
Nam Phi 533,2 4,9 0,8 4,27 4,47 4,69
Tây Ban Nha 1124,6 3,4 1,1 12,36 12,78 13,22
Thuỵ Điển 283,5 2,7 3,9 11,04 11,33 11,64
Thuỵ Sỹ 255,5 1,8 2,6 6,63 6,75 6,87
Thổ Nhĩ Kỳ 601,0 5,6 0,7 4,21 4,44 4,69
Anh 1933,3 1,8 1,9 36,72 37,39 38,06
Mỹ 12192,6 3,5 2,6 319,60 328,90 335,50
(Nguồn: Tạp chí R&D, OECD, World Bank)
5Các nền kinh tế không thuộc OECD cũng chiếm một phần lớn trong R&D thế giới.
Ví dụ, năm 2005, các nước Achentina, Trung Quốc, Chilê, Ixraen, Rumani, Nga,
Singapo, Nam Phi, Slôvakia và lãnh thổ Đài Loan chiếm 21,4% chi phí cho R&D
(được thể hiện theo mãi lực tương đương-PPP) của cả các nước OECD và không thuộc
OECD, tăng so với mức 17% của 4 năm trước.
Cho tới nay, Trung Quốc là nước chiếm tỷ lệ lớn nhất, lên tới 55% chi phí R&D của
các nước không thuộc OECD. Nước này đang đứng thứ 3 toàn cầu, sau Mỹ và Nhật
Bản, vượt qua cả EU. Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ đồng nội tệ sang đồng USD tính
theo mãi lực tương đương đã làm cho sự đánh giá nỗ lực phát triển và nghiên cứu của
Trung Quốc trở nên quá cao.
Năm 2005, Ixraen có cường độ tập trung cho R&D lớn nhất thế giới, nước này đã
chi 4,5% GDP vào R&D, tăng 2 lần so với mức trung bình của OECD. Trung Quốc,
lãnh thổ Đài Loan và Singapo là những nền kinh tế không thuộc OECD có mức đầu tư
cho R&D vượt trên mức trung bình của OECD.
Tại hầu hết các nền kinh tế không thuộc OECD nói trên, mức tăng của đầu tư cho
R&D luôn vượt trên tỷ lệ trung bình của OECD. Trung Quốc cần tăng đầu tư cho
R&D ít nhất 10-15% mỗi năm. Các nước thành viên mới và nhỏ của EU cũng báo cáo
đạt tốc độ phát triển hai con số.
R&D công nghiệp gắn bó mật thiết với việc tạo ra những sản phẩm và những công
nghệ sản xuất mới. Vì vậy, nó là động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Tuy nhiên,
ở những nước không thuộc OECD cũng như những nước thuộc OECD kém phát triển,
phần lớn R&D do Chính phủ và các cơ sở giáo dục đại học thực hiện.
Bảng 3 thể hiện mối tương quan về thực hiện R&D ở một số nước. Có thể thấy
R&D do ngành công nghiệp thực hiện chiếm phần lớn ở những nước tiên tiến như Mỹ,
Anh, Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc. Ba Lan là nước có tỷ lệ R&D do nhà nước thực
hiện cao nhất (chiếm 40,7%)
Bảng 3: Thực hiện R&D ở một số nước
Thực hiện R&D (%)
Ngành công nghiệp Chính phủ Khác
Ôxtrâylia 48,8 20,3 30,9
Áo 66,8 5,7 27,5
Bỉ 74,1 6,4 19,5
Braxin 53,0 11,0 36,0
Canađa 61,2 28,7 10,1
Trung Quốc 68,6 11,9 19,5
Đan Mạch 70,5 9,7 19,8
Phần Lan 62,3 17,1 20,7
Pháp 69,8 13,4 16,8
Đức 36,7 31,3 26,7
Hungary 36,7 31,3 26,7
Ai-len 70,1 8,1 21,8
Ixraen 73,0 5,8 21,2
Italia 49,1 18,4 32,6
Nhật Bản 75,0 9,3 15,8
Hàn Quốc 76,1 12,6 11,3
6Mêxicô 30,3 39,1 30,6
Hà Lan 58,4 13,8 27,8
Na Uy 57,5 15,1 27,5
Ba Lan 27,4 40,7 31,9
Bồ Đào Nha 31,8 20,8 47,5
Nga 69,9 24,5 5,6
Tây Ban Nha 54,1 15,4 30,5
Thuỵ Điển 74,1 3,5 22,4
Thuỵ Sỹ 73,9 1,3 24,8
Thổ Nhĩ Kỳ 33,7 7,4 58,9
Anh 65,7 9,6 24,6
Mỹ 68,9 9,1 22,1
(Nguồn: Global R&D Report, 2007)
Hình 1 thể hiện phân bổ R&D công nghiệp toàn cầu năm 2007, ba ngành công
nghiệp gồm: máy tính và thiết bị điện tử, y tế và tự động hoá là những lĩnh vực có mứ
đầu tư R&D lớn nhất.
Hình 1: Phân bổ R&D công nghiệp toàn cầu 2007
Hãa chÊt vµ n¨ng lîng
7%
C«ng nghÖ
8%
Tù ®éng hãa
18%
Y tÕ
21%
M¸y tÝnh vµ thiÕt bÞ ®iÖn
tö
25%
Kh¸c
2%
ViÔn th«ng
2%
Hµng kh«ng vò trô vµ
quèc phßng
3%
Tiªu dïng
4%
C¸c ngµnh
c«ng nghiÖp
5%
PhÇn mÒm và Internet
5%
(Nguồn: Booz Allen Hamilton)
7Hộp 1
1. - Sức mạnh, mức tăng trưởng và Độ ổn định trong đầu tư R&D ở Top 3 nước
đứng đầu Mỹ - Nhật Bản - Trung Quốc
Mỹ đang là nước dẫn đầu toàn cầu trong chi tiêu, thực hiện và đạt thành quả cao trong
lĩnh vực R&D trong suốt 25 năm qua. Thậm chí, với tác động của toàn cầu hoá và xu
hướng "gia công" R&D ở nước ngoài đang diễn ra hiện nay, vị trí này không dễ bị lung
lay trong thời gian trước mắt. Nhật Bản vững vàng ở vị trí thứ hai trong đầu tư R&D trong
cùng thời kỳ, theo sát Mỹ ở mức từ 41% tới 45% chi tiêu R&D của Mỹ. Tuy vậy, trong
những năm qua, "cặp đôi R&D năng động" này đã có thêm sự tham dự của Trung Quốc,
nước có mức tăng trưởng R&D ngoạn mục.
Các mức tăng trung bình hàng năm của đầu tư R&D trong 12 năm qua giao động từ 4% tới
5% cho Mỹ, Nhật Bản và EU-25. Mức tăng này tương phản mạnh với mức tăng trưởng hàng
năm là 17% trong chi tiêu R&D của Trung Quốc, tỷ lệ này đã tăng tốc một cách chóng mặt
trong 5 năm qua, thể hiện ở mức tăng 20% trung bình hằng năm (theo USD).
Tính theo tỷ giá hối đoái theo mãi lực tương đương, đầu tư R&D của Trung Quốc thực
sự đã ngang bằng với mức đầu tư của Nhật Bản đầu năm 2006, và được kỳ vọng là sẽ
vượt xa nước này trong những năm tới. Với vai trò là tỷ lệ của GDP, đầu tư R&D của
Trung Quốc trong những năm qua đã tăng từ chưa tới 1,0% lên tới 1,6% hiện nay. Tuy
nhiên, tỷ lệ này vẫn còn cách xa với tỷ lệ 2,6% GDP của Mỹ và 3,2% GDP của Nhật Bản.
Sự tiến bộ nhanh chóng của Trung Quốc trong đầu tư R&D so với cả Mỹ và Nhật Bản
chưa từng xảy ra trong lịch sử gần đây. Những con số này được củng cố bởi mức tăng
trưởng của lực lượng nghiên cứu viên công nghiệp của Trung Quốc. Nếu năm 1991, lực
lượng này chỉ bằng 16% lực lượng lao động nghiên cứu của Mỹ thì năm 2002, lực lượng
này đã bằng 42%. Nên biết, số lượng các nhà nghiên cứu công nghiệp của Mỹ (1,1 triệu
người) tương đương với số lượng các nhà nghiên cứu công nghiệp ở tất cả 29 nước OECD
còn lại.
Trong suốt thập niên 90 thế kỷ trước và những năm đầu thế kỷ 2000, nền kinh tế Nhật
Bản suy thoái và thể hiện một mức tăng trưởng âm. Mặc dù đầu tư R&D tiếp tục tăng
trong thời kỳ này, nhưng các mức tăng trưởng bị kìm hãm bởi những khó khăn của nền
kinh tế. Trong giai đoạn này, Mỹ, Trung Quốc và các nền kinh tế Châu Á khác đã chuyển
dịch sang các khu vực chế tạo công nghệ cao nhanh hơn cả EU-15 và Nhật Bản. Kết quả
là, Châu Âu và Nhật Bản tiếp tục mất thị phần trong lĩnh vực chế tạo công nghệ cao.
Nỗ lực phát triển kinh tế gần đây của Nhật Bản bắt đầu từ năm 2002 và được kỳ vọng
là tiếp tục tiếp diễn ít nhất cho tới năm 2007, thể hiện rõ ở những tiến bộ trong thị trường
lao động và gia tăng xuất khẩu. Tuy nhiên, vì Nhật Bản nổi lên từ giai đoạn đình trệ kinh
tế này, nên vẫn còn có những thách thức nội tại đối với các chiến lược R&D của nước này
để duy trì mức tăng trưởng tổng thể. OECD đã đưa ra các đề xuất cho Bộ Kinh tế, Thương
mại và Công nghiệp Nhật Bản, bao gồm:
- Tập trung nâng cao hiệu suất của chi tiêu R&D hơn là đáp ứng mức chi tiêu cụ thể
này;
- Duy trì mức linh hoạt trong phân bổ tài trợ R&D nhà nước;
- Nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của R&D dịch vụ;
- Tập trung hỗ trợ R&D cho các công ty mới khởi nghiệp;
- Tăng cường hợp tác quốc tế.
81.1.2. R&D của các doanh nghiệp kinh doanh
R&D của các doanh nghiệp kinh doanh (BERD) chiếm phần lớn hoạt động và tài
chính R&D ở các quốc gia OECD. Năm 2005, R&D của các doanh nghiệp đã tăng lên
tới 542 tỷ USD, xấp xỉ 68% tổng R&D. Hoạt động R&D của các doanh nghiệp thuộc
các nước OECD đã tăng ổn định trong 2 thập kỷ qua. Tốc độ tăng cao vào nửa cuối
những năm 90 thế kỷ trước, nhưng lại giảm dần từ năm 2001. R&D của doanh nghiệp
Mỹ tăng 3,6% vào 1995-2005, của EU tăng 3,0% và Nhật Bản tăng 4,6%.
Từ năm 1995-2005, BERD của khu vực OECD tăng 143 tỷ USD. Mỹ chiếm 40%
trong sự tăng trưởng này. Từ năm 1995, tỷ lệ tăng trung bình hàng năm của R&D
trong doanh nghiệp đạt mức cao nhất ở Trung Quốc, Mê-hi-cô, Ai-xơ-len, Bồ Đào
Nha và New Zealand. Chỉ riêng Cộng hoà Slôvakia bị sụt giảm nghiêm trọng. Năm
2005, BERD ở Trung Quốc đạt mức 78,7 tỷ USD. Ở Nhật, Mỹ và Châu Âu, R&D của
doanh nghiệp tăng từ giữa những năm 90 đến năm 2000. Tỷ lệ này tiếp tục tăng ở
Nhật, nhưng giảm xuống 2,6% ở Mỹ vào năm 2005, sau khi đạt mức 2,9% vào 5 năm
trước, và giảm nhẹ ở EU trong khoảng thời gian 2001-2005. Mức đầu tư R&D doanh
nghiệp luôn trên mức trung bình của OECD, 2,2% ở tất cả các quốc gia Bắc Âu ngoại
trừ Na Uy.Xu hướng tăng cũng có thể thấy rõ ở Thụy Điển (4,6%), Phần Lan (3,7%).
Ai-xơ-len cũng đã tăng 1,5% kể từ năm 1995.
Các công ty lớn hay nhỏ đều giữ vai trò quan trọng trong hoạt động đổi mới ở các
nước, nhưng tác động của nó tới R&D lại khác nhau. Ở các nước OECD, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (SMEs- là những doanh nghiệp dưới 250 nhân viên) ở các nền kinh
tế nhỏ hơn đóng góp cho hoạt động R&D nhiều hơn so với các nền kinh tế lớn.
Các công ty vừa và nhỏ đóng góp phần lớn cho hoạt động R&D doanh nghiệp ở
New Zealand (73%), Greece (53%), Na Uy (52%), Slôvakia (51%), Ai-len (47%). Ở
các nước EU lớn hơn, tỷ lệ này ở dưới mức 20% và ở Mỹ thì ít hơn 15%. Nhật Bản chỉ
với 8%, là nước có tỷ lệ R&D của các SMEs nhỏ nhất trong các nước OECD. Các
công ty có ít hơn 50 người cũng đóng góp trên 20% cho hoạt động R&D doanh nghiệp
ở các nước Na Uy, New Zealand, Ai-len và Ôxtrâylia.
Giữa các nước OECD, có sự khác biệt lớn trong việc phân bổ nguồn tài chính của
Chính phủ cho hoạt động R&D doanh nghiệp. Ở Bồ Đào Nha và Hungary, các công ty
vừa và nhỏ được nhận hơn ¾ nguồn tài trợ cho R&D của Chính phủ. Tại Bồ Đào Nha,
Hungary và Ôxtrâylia, các công ty dưới 50 công nhân được nhận hơn 50% nguồn tài
trợ R&D của Chính phủ. Anh, Pháp, Mỹ là các quốc gia phân bổ tài trợ R&D doanh
nghiệp của Chính phủ cho các công ty lớn nhiều nhất.
9- R&D của doanh nghiệp theo ngành công nghiệp
Khi cơ cấu kinh tế của các nước OECD dịch chuyển sang các ngành dịch vụ, thì các
ngành này vẫn chiếm tỷ lệ R&D nhỏ hơn nhiều so với GDP. Năm 2004, các ngành
dịch vụ chiếm 28% tổng R&D của khu vực kinh doanh trong các nước OECD, tăng
11% từ năm 1995. Nếu xét tới những khó khăn trong việc xác định các dịch vụ và
những phương pháp khác nhau dùng để phân loại chi tiêu R&D của doanh nghiệp theo
ngành công nghiệp, thì tỷ lệ này có thể còn thấp hơn nữa. Tỷ lệ BERD của các ngành
dịch vụ thường cao hơn ở các nước đang thực hiện nhiều nỗ lực xác định các dịch vụ,
cũng như những nỗ lực phân loại R&D theo hoạt động chính của doanh nghiệp.
Hơn 1/3 tổng R&D của doanh nghiệp được thực hiện tại khu vực dịch vụ ở các
nước như Ôxtrâylia (47%), Na Uy (42%), Canađa (39%), Ai-len (39%), Cộng Hoà Séc
(38%), Mỹ (36%) và Đan Mạch (34%). Hàn Quốc, Nhật Bản và Đức có tỷ lệ R&D
dịch vụ thấp hơn (dưới 10%). Điều này một phần do mức độ bao quát hạn chế của các
ngành công nghiệp dịch vụ trong các báo cáo R&D của họ.
Từ năm 1995, tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm của R&D trong ngành dịch vụ
cao hơn so với trong ngành chế tạo diễn ra ở tất cả các nước trừ Cộng Hoà Séc. Ai-len
có tỷ lệ tăng R&D mạnh nhất đối với 2 ngành: từ 1995 đến 2004, R&D tăng 2% trong
ngành dịch vụ (chủ yếu do tăng trưởng trong ngành dịch vụ máy tính) và tăng 2%
trong ngành chế tạo.
Các ngành công nghiệp chế tạo được gộp lại thành 4 nhóm theo hàm lượng R&D
của chúng: công nghệ hàm lượng R&D cao, trung bình cao, trung bình thấp và thấp.
Trong khu vực OECD, các nghành công nghiệp công nghệ cao chiếm hơn 53% tổng
R&D trong ngành chế tạo. Năm 2004, R&D trong các ngành công nghiệp chế tạo
chiếm hơn 63% tổng R&D của ngành chế tạo ở Mỹ, so với 47% và 43% lần lượt ở
Châu Âu và Nhật Bản.
Ở Phần Lan, Canađa, Mỹ và Ai-len, chi tiêu R&D trong ngành chế tạo chủ yếu
dành cho các ngành công nghiệp công nghệ cao. Cộng Hoà Séc và Đức dành 50% hơn
chi tiêu R&D cho ngành công nghiệp công nghệ trung bình-cao. Ôxtrâylia và Na Uy là
những nước duy nhất trong các nước OECD có các ngành công nghiệp công nghệ
trung bình - thấp và thấp được dành cho hơn 30% R&D trong ngành chế tạo.
10
Hộp 2
- Vốn đầu tư mạo hiểm
Vốn đầu tư mạo hiểm là nguồn hỗ trợ chính cho các công ty dựa trên công nghệ
mới. Nó giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới cơ bản, thường
được triển khai bởi các công ty này và là một trong những yếu tố mang tính quyết định
trong kinh doanh. Trong giai đoạn 2003 – 2005, vốn đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn
đầu và giai đoạn tăng trưởng của các công ty tăng mạnh tại 3 nước có mức đầu tư vốn
mạo hiểm cao nhất, tính theo GDP năm 2005. Đó là: Đan Mạch, với tỷ lệ tăng hàng
năm là 95%; Thụy Điển (45%) và Anh (35%). Tuy nhiên, tỷ lệ này lại giảm ở Phần
Lan, Tây Ban Nha và Italia.
Năm 2005, Mỹ (với 39%) và Anh (11%) thu hút một nửa lượng vốn đầu tư mạo
hiểm trong toàn bộ các nước OECD. Anh