Đề tài Một số định hướng góp phần đẩy mạnh tiêu thụ mặt hàng sơ mi tại Công ty May Thăng Long

Trong nền kinh tế thị trường, các đơn vị sản xuất, kinh doanh ở các thành phần kinh tế cùng tồn tại, cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Các đơn vị sản xuất sản phẩm hàng hoá không những có nhiệm vụ sản xuất tạo ra các sản phẩm, hàng hoá mà còn có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ sản phẩm đó. Các doanh nghiệp trong ngành may cũng tồn tại và phát triển theo xu thế đó.

docx55 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số định hướng góp phần đẩy mạnh tiêu thụ mặt hàng sơ mi tại Công ty May Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong nền kinh tế thị trường, các đơn vị sản xuất, kinh doanh ở các thành phần kinh tế cùng tồn tại, cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Các đơn vị sản xuất sản phẩm hàng hoá không những có nhiệm vụ sản xuất tạo ra các sản phẩm, hàng hoá mà còn có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ sản phẩm đó. Các doanh nghiệp trong ngành may cũng tồn tại và phát triển theo xu thế đó. Sản phẩm ngành may rất đa dạng, có tính chất thời trang, vừa có tính quốc tế, vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, yêu cầu hàng may lại càng phong phú và đòi hỏi chất lượng cao hơn. Sản phẩm sơ mi thường rất đa dạng về chủng loại, mẫu mốt phù hợp với mọi tầng lớp trong xã hội. Từ những nhu cầu của người tiêu dùng đa dạng mà đòi hỏi sản phẩm sơ mi phải có chất liệu vải, màu sắc, kiểu mốt và giá cả hợp lý mới có thể tiêu thụ dễ dàng và hiệu quả. Sơ mi là mặt hàng truyền thống của Công ty May Thăng Long , qua bao nhiêu năm sản xuất không ổn định, nay đang được công ty chú trọng đầu tư và tìm hướng đẩy mạnh tiêu thụ. Qua thời gian thực tập tại Công ty May Thăng Long, em nhận thấy sản phẩm sơ mi có tiềm năng sản xuất rất lớn, nếu có hướng phát triển hợp lý sẽ mang lại lợi nhuận cao cho công ty, đưa sản phẩm của công ty tiếp cận sâu vào thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu, nâng cao uy tín của công ty trên thị trường sản phẩm may mặc. Em quyết định chọn đề tài: “Một số định hướng góp phần đẩy mạnh tiêu thụ mặt hàng sơ mi tại Công ty May Thăng Long”. Bài viết được chia thành ba phần chính: - Chương I: Tổng quan thực trạng ngành công nghiệp dệt may Việt Nam - Chương II: Tình hình sản xuất kinh doanh sản phẩm sơ mi tại Công ty may Thăng Long và hướng phát triển trong thời gian tới. - Chương III: Lựa chọn định hướng phát triển sản phẩm sơ mi cho công ty may Thăng Long trong thời gian tới. Để hoàn thành bài viết này, em được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô - chú trong Công ty may Thăng Long cùng sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo Nguyễn Mạnh Quân và Cô giáo Hoàng Thuý Nga. Em xin chân thành cảm ơn. Song do thời gian nghiên cứu hạn chế, lượng kiến thức chưa hoàn chỉnh, bài viết không tránh khỏi những sai sót. Em xin được sự khuyến khích và chỉ bảo của Thầy Cô để hoàn chỉnh phương pháp nghiên cứu của mình. Sinh viên thực hiện Phạm Thị Thuý Hằng. Bảng tóm tắt số liệu Bảng Trang Bảng 1: Giá trị xuất khẩu ngành dệt- may 4 Bảng 2: Mục tiêu giá trị xuất khẩu hàng may mặc 9 Bảng 3: Khả năng cạnh tranh của sản phẩm. 14 Bảng 4: Đặc điểm công ty may Thăng Long theo từng thời kỳ phát triển. 17 Bảng 5: Kết quả sản xuất kinh doanh sản phẩm sơ mi qua một số năm. 21 Bảng 6: Giá trị xuất khẩu sản phẩm sơ mi trên một số thị trường. 22 Bảng 7: Khả năng cạnh tranh của sản phẩm sơ mi trên thị trường nội địa. 23 Bảng 8: Sản lượng sơ mi tiêu thụ nội địa qua các năm. 23 Bảng 9: Giá trị tiêu thụ nội địa của sản phẩm sơ mi qua các năm. 23 Bảng 10: Số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động. 24 Bảng 11: Năng lực sản xuất sơ mi trong năm 1999 và 2000 25 Bảng 12: Tỷ lệ sản phẩm sơ mi chiếm trong doanh thu năm 1999 26 Bảng 13: Tỷ lệ sản phẩm sơ mi chiếm trong doanh thu năm 1998 26 Bảng 14.1: Bảng tổng hợp môi trường vĩ mô của công ty may Thăng Long. 30 Bảng14.2: Bảng tổng hợp môi trường tác nghiệp của công ty may Thăng Long. 31 Bảng 14.3: Bảng tổng hợp môi trường nội bộ của công ty may Thăng Long. 32 Chương I Tổng quan thực trạng ngành công nghiệp dệt may Việt Nam I. Vị trí ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong nền kinh tế quốc dân. Ngành dệt may Việt Nam có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo hàng hoá cho tiêu dùng trong nước, có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ra ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu, mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước. Năm 1995 giá trị xuất khẩu ngành dệt may đạt 14.4% so với giá trị xuất khẩu toàn quốc và liên tục tăng lên qua các năm. Số liệu được tổng hợp qua bảng sau: Bảng 1: Giá trị xuất khẩu ngành dệt- may. (Đơn vị: triệu USD) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Giá trị 116 180 350 550 750 1150 (Nguồn: Bộ công nghiệp nhẹ - Tổng công ty dệt- may Việt nam) Đồng thời ngành dệt may cũng là ngành mang tính xã hội cao, sử dụng nhiều lao động rộng rãi trên khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là lao động nữ. Số lao động công nghiệp của ngành vào loại đứng đầu cả nước: khoảng 300.000 lao động chính và nhiều lao động phụ khác. Trong các thời kì đã qua, ngành đã có bước phát triển và giữ một vai trò quan trọng trong sản xuất hàng tiêu dùng, giải quyết công ăn việc làm, góp phần tạo sự ổn định chính trị - kinh tế - xã hội nên được Đảng và Nhà nước quan tâm. Ngành dệt may vẫn đang chiếm một vị trí quan trọng về ăn mặc của nhân dân, quốc phòng và tiêu dùng trong công nghiệp khác. II. Thực trạng mặt hàng may và phụ liệu may. Sản phẩm ngành may rất đa dạng, có tính chất thời trang, vừa có tính quốc tế, vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, yêu cầu hàng may mặc lại càng phong phú, đa dạng, yêu cầu về chất lượng cao hơn. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống nhân dân mặc hàng ngày, thông qua gia công cho các nước, các doanh nghiệp may Việt nam có điều kiện làm quen với công nghệ may các mặt hàng phức tạp, thời trang trên thế giới. Các nhóm mặt hàng các doanh nghiệp may đang thực hiện, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu có thể kể đến như: - Nhóm mặt hàng lót nam nữ. - Nhóm mặt hàng thường dùng ở nhà: các loại bộ ngủ nam nữ, vỏ chăn, ga, gối... - Nhóm mặt hàng mặc thường ngày: Sơ mi, quần âu, áo, váy... - Nhóm quần thể thao: Quần áo vải thun, quần áo bò... - Nhóm thời trang hiện đại. - Nhóm trang phục đặc biệt: Quân đội, bảo hộ lao động cho các ngành nghề. Các nhóm hàng trên với nhiều chất liệu vải và phụ liệu, với tay nghề tốt, khéo léo nên các sản phẩm sản xuất ra đạt yêu cầu chất lượng khách hàng. Tuy vậy một số mặt hàng như sơ mi, quần áo vải thun bò... chưa đáp ứng được nhu cầu kiểu dáng và màu sắc . Công nghiệp may Việt nam tiến bộ nhanh, từ chỗ may quần áo lao động xuất khẩu, các loại quần áo đơn giản như quần áo ngủ, quần áo học sinh... nay đã may được nhiều mặt hàng cao cấp được người tiêu dùng chấp nhận, khách hàng nước ngoài tín nhiệm đặt hàng đi tiêu thụ tại nhiều thị trường khó tính trên thế giới. Về phụ liệu may: Những năm trước đây trong nước chỉ sản xuất được một số phụ liệu may như chỉ, cúc, khoá kéo, túi PE, bìa lưng, khoanh nơ cổ...với chất lượng kém. Mấy năm gần đây, với sự tiến bộ kỹ thuật và đổi mới máy móc thiết bị, liên doanh với nước ngoài, đầu tư từ nước ngoài... sản xuất phụ liệu may trong nước có nhiều tiến bộ đạt chất lượng cao đảm bảo cho hàng may xuất khẩu như chỉ khâu Total Phong Phú, Khoá kéo Nha Trang, nút nhựa Việt thuận, Việt Khánh, mex Việt Phát, bông tấm Việt Tiến, Minh Phụng... III. Thị trường hàng dệt may Việt Nam 1. Thị trường xuất khẩu Được sự phối hợp và hỗ trợ tích cực của các cơ quan quản lí nhà nước ở cấp vĩ mô nên hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và cộng đồng chung Châu Âu được ký kết vào ngày 15/12/92 và có hiệu lực thi hành vào ngày 1/1/93, một cơ hội mới đã mở ra cho ngành dệt may Việt nam có được một thị trường tư bản quan trọng với hơn 350 triệu dân có mức sống cao để xuất khẩu sản phẩm dệt may với tổng khối lượng trao đổi hàng năm vào khoảng 22 - 23 ngàn tấn. Ngành dệt may Việt nam cũng đã đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công hoặc phương thức thương mại thông thương với một số nước có nền công nghiệp phát triển như : Nhật Bản, Canada... các nước công nghiệp mới như Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapo và gần đây khi Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam hàng dệt may Việt nam có thêm thị trường Mỹ với sức mua rất cao. Tuy đã có những thuận lợi hơn trong việc mở rộng thị trường, nhưng thử thách đối với hàng dệt may của ta đối với thị trường thế giới còn rất lớn. Đó là khả năng thích ứng về mẫu mốt, chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng theo thời vụ và tập quán buôn bán còn rất hạn chế. Số lượng sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng ở các nước phát triển chưa nhiêù. Cho đến nay, ngành dệt may Việt nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 200 công ty thuộc hơn 40 nước trên thế giới và khu vực. Tuy vậy, thị trường xuất khẩu vẫn không ổn định, đặc biệt là thị trường phi hạn ngạch do các nguyên nhân chủ yếu sau: - Hàng hoá do ta sản xuất chưa phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng. - Phương thức hoạt động chủ yếu là gia công xuất khẩu. - Mẫu mã thường sản xuất theo mẫu của khách hàng. - Việc tổ chức mạng lưới thông tin, tiếp thị ở nước ngoài chưa triển khai thống nhất. - Một số thị trường chưa được hưởng quy chế ưu đãi. - Còn chứa đựng nhiều hiểu biết về thủ tục tập quán và luật lệ của các nước và khu vực trên toàn thế giới. 2. Thị trường dệt may trong nước. Do xu hướng tự do hoá mậu dịch nên hàng may mặc tràn vào nước ta từ nhiều nguồn: hàng nhập trốn thuế, hàng second-hand...giá rất rẻ, tràn ngập thị trường trong nước đã làm cho sản xuất hàng dệt - may trong nước bị thu hẹp. Thị hiếu trong nước cũng thay đổi từ chỗ mọi người mua vải để may đo, nay đại bộ phận dân cư đã chuyển sang mua quần áo may sẵn vì nó vừa tiện lợi, vừa dễ dàng thay đổi hợp model. Ngành dệt - may phải coi thị trường trong nước là then chốt để phát triển đúng hướng với khoảng 100 triệu dân vào năm 2010. IV. Đánh giá chung thực trạng ngành dệt - may Việt Nam. 1. Ngành dệt - may Việt Nam trong nhiều năm qua là ngành xuất khẩu mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước, năm 1995 đạt 14,4% so với xuất khẩu toàn quốc, hiện chỉ đứng thứ hai sau dầu thô. 2. Ngành còn một số mặt còn yếu cần nỗ lực vươn lên trong thời gian tới. - Ngành dệt - may Việt Nam còn quá nhỏ bé so với khu vực và thế giới: xuất khẩu 1995 chỉ bằng 2,1% so với xuất khẩu của Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. - Trình độ ngiên cứu mẫu mốt thời trang chưa kịp theo yêu cầu. Các sản phẩm ngành may phổ thông: sơ mi, jacket... tỷ lệ mặt hàng cao cấp còn ít, năng suất còn thấp và vẫn làm hàng gia công là chính. - Năng lực thực tế sản xuất ngành may chỉ đạt trên dưới 50% tổng năng lực hiện có - do thiếu thị trường: thị trường xuất khẩu không ổn định, bị động, lệ thuộc, bị ép giá...; có tới 85% sản phẩm may là làm gia công, chỉ còn 10-15% sử dụng vải trong nước, thị trường nội địa còn để cho sản phẩm ngoại nhập chiếm lĩnh phần lớn. - Trình độ tổ chức quản lý sản xuất và marketing của ngành may trong cơ chế thị trường còn bộc lộ nhiều yếu kém: ít chủ động sáng tạo trong phát triển mặt hàng. 3. Thực trạng ngành may ngoài quốc doanh. Ngành công nghiệp may Việt nam phát triển với tốc độ tăng trưởng cao, năm 1995 so với năm 1990 tăng 319%, trong đó: - Khu vực ngoài quốc doanh tăng 345,6%. - Số cơ sở sản xuất hàng may tăng từ 392 lên 514 cơ sở từ năm 1990 đến 1996. Trong đó công nghiệp ngoài quốc doanh từ 296 lên 384. Khu vực ngoài quốc doanh, trước năm 1990, chủ yếu là các hợp tác xã, đến nay đã thay đổi cơ bản: Công ty tư doanh 17,7% Công ty TNHH 53,5% Công ty cổ phần 2,5% Khu vực hợp tác xã giảm sút, tan rã khách hàng không còn mấy, một số chuyển sang công ty TNHH, công ty cổ phần. Các công ty tư nhân, công ty TNHH phát triển rất nhanh, có khả năng huy động vốn trong dân, năng động trong sản xuất kinh doanh, chủ động bám sát thị trường trong và ngoài nước, sản xuất các mặt hàng chất lượng tốt, hợp thị hiếu, theo yêu cầu của khách hàng. Hầu hết các cơ sở này có quy mô vừa và nhỏ 100 - 300 lao động. Đặc điểm của các công ty TNHH, công ty tư nhân là: - Bộ máy quản lý gọn nhẹ, làm ăn có tính toán, quyết định nhanh. - Đảm bảo chất lượng hàng hoá, giữ uy tín với khách hàng . - Hoạt động tiếp thị rất tích cực. - Lao động có tay nghề cao. - Vốn bỏ ra ít , thu lãi nhiều. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp cho ngành may, cho xã hội một khối lượng hàng may mặc tiêu dùng trong nước và xuất khẩu tương đối nhiều. Tiềm năng của các doanh nghiệp may ngoài quóc doanh rất lớn, điều đó là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp may quốc doanh trong cạnh tranh. V. Mục tiêu sản xuất - xuất khẩu ngành dệt - may đến năm 2010. 1. Mục tiêu tổng quát. - Ngành dệt - may Việt Nam trước tiên phục vụ nhu cầu của hơn 100 triệu dân trong nước vào năm 2010, với mức tiêu thụ 3,6 kg/người và nhu cầu an ninh, quốc phòng. - Toàn ngành có mức tăng trưởng bình quân 13%/năm, sau năm 2005 có mức tăng trưởng trên 14%/năm, đóng góp vào sự tăng trưởng chung của đất nước. - Về trình độ công nghệ đến năm 2010, toàn ngành sẽ đạt mức tiên tiến trong khu vực để hoà nhập vào thị trường chung trong khu vực và thế giới. - Về xã hội: Tạo ra công ăn việc làm cho gần 2 triệu lao động dệt - may vào năm 2010, có thu nhập bình quân trên 150 USD/tháng/người. - Kiện toàn tổ chức, quản lý toàn ngành để Tổng công ty dệt - may Việt Nam thực sự là một Tổng công ty mạnh, đóng vai trò chủ đạo cho việc tổ chức sản xuất và xuất nhập khẩu dệt - may trong cả nước. 2. Mục tiêu cụ thể. Bảng 2: Mục tiêu giá trị xuất khẩu hàng may mặc (Đơn vị : triệu USD) Chỉ tiêu Thực hiện 1995 Kế hoạch 2000 Kế hoạch 2005 Kế hoạch 2010 Kim ngạch xuất khẩu Trong đó: Hàng may mặc Tỷ lệ 750 500 66,67% 2000 1630 81.5% 3000 2200 73,3% 4000 3000 75% (Nguồn: Tổng công ty dệt-may Việt nam) VI. Hoạt động sản xuất sản phẩm sơ mi tại Công ty May Thăng Long trong xu thế phát triển chung của ngành. Sản phẩm sơ mi nam là mặt hàng truyền thống của công ty may Thăng Long, qua nhiều năm thăng trầm, mới được phát triển trở lại trong những năm gần đây và hiện nay là một trong những mặt hàng trọng điểm được công ty chú trọng và tìm hướng đẩy mạnh tiêu thụ. Theo xu thế thế phát triển của ngành dệt - may, sản phẩm sơ mi nói riêng và sản phẩm may mặc nói chung có nhiều thuận lợi và khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ. Những thuận lợi và trở ngại này chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong môi trường kinh doanh chung của ngành dệt - may. 1. Những thuận lợi. 1.1. ảnh hưởng của yếu tố chính phủ và chính trị. Từ trước tới nay, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết, nhất là nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu đa dạng ngày càng cao, phục vụ tốt hơn nhu cầu trong nước và xuất khẩu”. Nhờ vậy mà trong các thời kì đã qua, ngành dệt - may Việt nam đã có bước phát triển và giữ một vai trò quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng. Chương trình kinh tế này của Chính phủ tạo cơ hội cho công ty may Thăng Long liên tục phát triển về mặt hàng may mặc. Đây là mặt hàng phục vụ nhu nhu cầu thiết yếu của người tiêu dùng với tính đa dạng về sở thích và yêu cầu. Mặt hàng sơ mi nam của công ty từ đó có điều kiện phát triển về kiểu dáng, mẫu mã và chất lượng sản phẩm . 1.2. ảnh hưởng của yếu tố kinh tế . Những năm gần đây đời sống của nhân dân được nâng cao nên mức tiêu dùng sản phẩm may mặc ngày càng lớn. Theo dự tính sơ bộ, nếu GDP bình quân đầu người của nước ta đến năm 2005 đạt 600 - 800 USD và ước đạt 900 - 1200 USD vào năm 2010 thì mức tiêu dùng hàng hoá tính theo đầu người là 250 đến 350 USD/năm vào năm 2005 và 400 - 500 USD vào năm 2010. Từ đó mức tiêu dùng sản phẩm dệt - may chiếm khoảng 6-8% tổng thu nhập. Điều đó cho thấy, nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng nói chung và sản phẩm dệt - may nói riêng là rất lớn trong những năm tới. Vấn đề đó đặt ra đòi hỏi khả năng nghiên cứu thị hiếu, mức tiêu dùng dùng hàng dệt - may nói chung và sản phẩm sơ mi nam nói riêng của công ty may Thăng Long nhằm tổ chức sản xuất phù hợp, đưa nhanh tiến độ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, từ đó thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm phù hợp với từng đối tượng và nhu cầu. Sản phẩm sơ mi nam là một trong những mặt hàng trọng điểm của công ty may Thăng Long. Sản phẩm này hầu như bất biến về mẫu mã và kiểu dáng. Khi nhu cầu về sản phẩm may sẵn tăng thì nhu cầu về số lượng sơ mi cũng tăng lên. Người ta có nhu cầu nhiều hơn về màu sắc và chất liệu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, phục vụ tốt hơn nhu cầu về sơ mi có chiều hướng tăng trong thời gian tới. 1.3. ảnh hưởng của yếu tố xã hội. Tỷ lệ tăng dân số trên thế giới nói chung và các nước đang phát triển nói riêng đang tăng lên, đặc biệt tăng ở độ tuổi 18-35. Do đó quan điểm về phong cách sống và thị hiếu rất đa dạng và phong phú. Điển hình về thị hiếu là nhu cầu về may mặc thay đổi từ chỗ mọi người mua vải để may đo nay đại bộ phận dân cư trong nước chuyển sang mua quần áo may sẵn vì vừa tiện lợi vừa hợp túi tiền. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho công ty may Thăng Long tập trung sản xuất các sản phẩm sơ mi đáp ứng một phần nhu cầu, thị hiếu đó. 1.4 ảnh hưởng của yếu tố công nghệ. Song song với sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới thì ngành may cũng không ngừng phát triển từ các phụ liệu may, thiết bị đến công nghệ và tổ chức sản xuất. Về phụ liệu may: Hiện nay công nghiệp may Việt nam đang sử dụng chủ yếu vật liệu dựng dính (mex) 1 mặt. Trong tương lai, vật liệu dựng dính 2 mặt, lưới dựng đặc biệt bằng chất dẻo...sẽ được sản xuất và ứng dụng rộng rãi để định hình tốt hơn các chi tiết may mặc. Về thiết bị: ứng dụng vi tính với chương trình thiết kế tự động, người hoạ sĩ chỉ việc đưa vào máy các dữ liệu về hoạ tiết của vải, các màu sắc, các kiểu dáng, các phương án phối màu... nhanh chóng đưa ra những sản phẩm định thiết kế, lưu giữ các sản phẩm thiết kế hài hoà, hợp thời trang. Với chương trình giác sơ đồ, máy cho phép thu nhỏ các chi tiết thiết kế, nhanh chóng tìm ra phương án giác sơ đồ sao cho tận dụng nguyên liệu tối đa, giảm tiêu hao nguyên liệu tới mức thấp nhất. Trong công đoạn cắt, máy trải vải tự động sẽ được sử dụng trong các công ty may đảm bảo các lớp vải êm phẳng với chiều cao từ 70 - 150 lớp vải. Bên cạnh đó sẽ sử dụng thiết bị cắt tự động theo chương trình, thiết bị cắt vải bằng laze. Trong công đoạn may, tỷ trọng các máy may chuyên dùng sẽ được dùng nhiều hơn trong các dây chuyền trang bị các máy may tự động. Trong công đoạn hoàn thiện sản phẩm, hệ thống là hơi vừa nâng cao năng suất lao động, vừa tránh cho sản phẩm khỏi bị bóng sẽ ngày càng xuất hiện nhiều trong các dây chuyền may công nghiệp. Ngoài ra sẽ có những máy tự động, định hình sản phẩm theo một dáng nhất định. Với điều kiện công nghệ trong ngành may phát triển như vậy thì việc tạo ra các sản phẩm sơ mi đạt độ sáng, bền, đẹp với chi phí thấp nhất không còn là khó đối với công ty may Thăng Long.Với điều kiện về tài chính và khả năng nghiên cứu phát triển, công ty có thể ứng dụng các thiết bị chuyên dùng tiên tiến và hiện đại nhằm tận dụng nguyên liệu tối đa, giảm tiêu hao vải tới mức thấp nhất, tạo ra những kiểu dáng sơ mi sang trọng và lịch sự nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu dùng. 1.5. Nguồn cung ứng nguyên vật liệu. Hiện nay, nguồn nguyên vật liệu chủ yếu của công ty là vải các loại chủ yếu nhập từ nước ngoài (chiếm đến 70 %), còn lại là từ các xí nghiệp dệt ở trong nước như Nam Định, Vĩnh Phú, dệt 8/3, dệt Phong Phú... Riêng hàng sơ mi bán đứt thì vải chủ yếu được nhập từ xí nghiệp dệt ở Vĩnh Phú. Vì vải là các nguyên liệu chính để sản xuất hàng sơ mi nên để sản phẩm sơ mi đạt được độ sáng, bền, đẹp thì trước hết vải sản xuất phải đạt được yêu cầu về chất lượng và màu sắc. Việc nghiên cứu nguồn cung ứng đảm bảo về chất lượng và chi phí là vấn đề đặt ra đối với công ty trong hoạt động nghiên cứu thị trường. Những năm trước đây trong nước chỉ sản xuất được một số phụ liệu may như chỉ, cúc, khoá kéo, túi PE, bìa lưng, khoanh nơ cổ... với chất lượng kém. Mấy năm gần đây, với sự tiến bộ kỹ thuật và đổi mới máy móc thiết bị, liên doanh với nước ngoài, đầu tư từ nước ngoài... sản xuất phụ liệu may trong nước có nhiều tiến bộ đạt chất lượng cao đảm bảo cho hàng may xuất khẩu như chỉ khâu Total Phong Phú, Khoá kéo Nha Trang, nút nhựa Việt thuận, Việt Khánh, mex Việt Phát... Đây là những cơ hội đặt ra cho công ty may Thăng Long lựa chọn được nguồn cung ứng phụ liệu tin cậy, chất lượng góp phần nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm sơ mi. 2. Những khó khăn. Công ty còn gặp trở ngại từ nhiều phía, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Thứ nhất, cơ chế q
Tài liệu liên quan