Đề tài Một số giải pháp Chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản trị chi phí kinh doanh tại công ty cơ khí 120

Trong sự phát triển đi lên của đất nước ta, các doanh nghiệp luôn luôn phải phấn đấu vươn lên để dứng vững trên thị trường, Doanh nghiệp là một mắt xích của quá trình tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp là nơi trực tiếp sản xuất hàng hoá, là nơi trực tiếp kết hợp lao động của con người với các tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Do đó muốn đất nước phát triển thì trước tiên là phải phát triển doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.

doc97 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp Chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản trị chi phí kinh doanh tại công ty cơ khí 120, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Trong sự phát triển đi lên của đất nước ta, các doanh nghiệp luôn luôn phải phấn đấu vươn lên để dứng vững trên thị trường, Doanh nghiệp là một mắt xích của quá trình tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp là nơi trực tiếp sản xuất hàng hoá, là nơi trực tiếp kết hợp lao động của con người với các tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Do đó muốn đất nước phát triển thì trước tiên là phải phát triển doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Sản xuất kinh doanh là một trình bao gồm từ khâu nghiên cứu, khảo sát, nắm bắt nhu cầu thị trường đến quyết định sản xuất, chuẩn bị tốt các điều kiện sản xuất, tổ chức tiêu thụ những hàng hoá đó. Muốn sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả thì doanh nghiệp luôn phải có các thông tin bên ngoài và thông tin bên trong để ra các quyết định sản xuất kinh doanh. hệ thống thông tin bên trong doanh nghiệp luôn phản ánh chính xác thực trạng của doanh nghiệp tạo cho các nhà quản trị ra các quyết định kinh doanh. Do đó trong doanh nghiệp có một bộ phận là kế toán quản trị doanh nghiệp. Kế toán quản trị có nội dung cơ bản là tính chi phí kinh doanh và kết quả hay còn gọi là quản trị chi phí kinh doanh. Quản trị chi phí kinh doanh cung cấp thông tin kinh tế bên trong cho bộ máy quản trị doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc ra các quyết định quản trị. Qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cơ khí 120, tôi xin đề cấp tới vấn đề: Một số giải pháp Chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản trị chi phí kinh doanh tại công ty cơ khí 120. Nội dung luận văn này gồm 3 phần: Chương I: Nâng cao chất lượng công tác tính và quản trị chi phí kinh doanh điều kiện cơ bản để tạo ra thông tin kinh tế bên trong chính xác làm cơ sở cho các quyết định quản trị khoa học. Chương II: Thực trạng quản trị chi phí kinh doanh tại Công ty cơ khí 120. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị chi phí kinh doanh tại Công ty cơ khí 120. Chương I nâng cao chất lượng công tác tính và quản trị chi phí kinh doanh- điều kiện cơ bản để tạo ra thông tin kinh tế bên trong chính xác làm cơ sở cho các quyết định quản trị khoa học 1.1. Quản trị chi phí kinh doanh trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm quản trị chi phí kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường, quản trị chi phí kinh doanh là công cụ quan trọng phục vụ công tác quản lý kinh tế. Trong lĩnh vực kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, người quản lý phải hiểu biết, tổ chức, phối hợp, tiên liệu và kiểm soát mọi vấn đề trong doanh nghiệp, nhằm chỉ đạo cũng như hướng dẫn doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu quả cao nhất. Muốn vậy các nhà quản trị không chỉ cần nắm vững các thông tin kế toán đơn thuần phản ánh sự kiện kinh tế tài chính đã xảy ra thông qua số liệu kế toán tài chính, đồng thời cần phải có thông tin kế toán đã thu thập, xử lý, chọn lọc thành các mang riêng biệt phục vụ cho công tác quản lý mà quản trị chi phí kinh doanh- kế toán quản trị cung cấp. Do đó, có thể nói quản trị chi phí kinh doanh là phương pháp xử lý các dữ kiện kế toán đế đạt được các mục tiêu thiết lập thông tin cho việc lập dự toán ngân sách về chi phí, doanh thu và kết quả trong một thời kỳ hoạt động, cũng như kiểm soát một cách có hiệu quả tình hình hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp. Theo Haberstock: “Quản trị chi phí kinh doanh là tính toán hướng nội, nó mô tả- về nguyên tắc được thực hiện hàng tháng- đường vận động của các nhân tố sản xuất trong quá trình kết hợp chúng và giới hạn ở việc tính toán mọi hao phí nhằm tạo ra và thực hiện các kết quả của doanh nghiệp, đó chính là chi phí kinh doanh”. Như vậy quản trị chi phí kinh doanh là loại kế toán phục vụ cho các nhà quản lý doanh nghiệp và nó được xem như là hệ thống trợ giúp cho các nhà quản lý trong quá trình ra quyết định. 1.1.2. Phân biệt kế toán tài chính và quản trị chi phí kinh doanh - kế toán quản trị Quản trị chi phí kinh doanh và kế toán tài chính(KTTC) đều là những công cụ quản lý kinh tế rất hữu hiệu của mỗi doanh nghiệp. Cả KTTC và QTCPKD cùng nghiên cứu quá trình sản xuất, cùng sử dụng hệ thống ghi chép ban đầu và cùng thể hiện trách nhiệm của người quản lý. Quản trị chi phí kinh doanh sử dụng rộng rãi các số liệu ghi chép hàng ngày của KTTC mặc dù nó có triển khai và làm tăng số liệu này. Ngoài ra KTTC và QTCPKD đều có khái niệm trách nhiệm và quản lý, với KTTC đó là khái niệm quản lý trên toàn doanh nghiệp và QTCPKD là quản lý từng bộ phận có trách nhiệm với chi phí. Mặc dù vậy giữa KTTC và QTCPKD có nhữnh điểm khác biệt khá rõ, sở dĩ có những điều này là do mục đích cung cấp thông tin của chúng cho những đối tượng sử dụng thông tin khác nhau. Cụ thể phân biệt trên những điểm cơ bản sau: - Kế toán tài chính và quản trị chi phí kinh doanh có đối tượng sử dụng khác nhau, mục đích sử dụng thông tin khác nhau. Đối tượng sử dụng thông tin của quản trị chi phí kinh doanh là những nhà quản trị ở bên trong doanh nghiệp, còn đối tượng của kế toán tài chính là những người bên ngoài doanh nghiệp, cơ quan chức năng. - Thông tin của quản trị chi phí kinh doanh đặt trọng tâm chủ yếu cho tương lai, thông tin luôn cần phải linh hoạt, tốc độ và thích hợp với từng quyết định, không buộc phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán cũng như không buộc phải có độ chính xác gần như tuyệt đối và thông tin của quản trị chi phí kinh doanh thì được biểu diễn dưới hình thái giá trị lẫn hình thái vật chất (hiện vật). Đối với thông tin của kế toán tài chính thì chủ yếu phản ánh các nghiệp vụ kinh tế đã xảy ra. Thông tin của kế toán tài chính phải tuân thủ nguyên tắc kế toán, có tính phản ánh khách quan sự kiện kinh tế đã xảy ra, phải có độ chính xác gần như tuyệt đối và chủ yếu được biểu diễn dưới hình thái giá trị. - Báo cáo của kế toán tài chính phản ánh tình hình của doanh nghiệp nói chung, còn báo cáo của quản trị chi phí kinh doanh đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp. Các báo cáo kế hoạch tài chính chủ yếu là bảng cân đối tài sản, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ của toàn doanh nghiệp. Báo cáo quản trị chi phí kinh doanh là các báo cáo thực hiện của từng bộ phận, từng khâu công việc trong doanh nghiệp. - Về nguyên tắc, kế toán tài chính đề cập đến mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và môi trường xung quanh thì quản trị chi phí kinh doanh chỉ tập hợp các quá trình liên doanh đến sự vận động của quá trình sản xuất ở bên trong doanh nghiệp. - Trong khi kế toán tài chính tiến hành theo định kỳ thì quản trị chi phí kinh doanh chi phí kinh doanh tiến hành thường xuyên liên tục. Quản trị chi phí kinh doanh là nhằm phục vụ thông tin cho chức năng ra quyết định của nhà quản trị và thường không có sẵn nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán, quản trị chi phí kinh doanh còn phải kết hợp với nhiều ngành khác như thống kê, quản lý để tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin thành dạng có thể sử dụng được. - Kế toán tài chính có tính pháp lệnh, nghĩa là sổ sách, báo cáo của kế táon tài chính ở mọi doanh nghiệp đều mang tính bắt buộc. Trái lại, sổ sách, báo cáo của quản trị chi phí kinh doanh là riêng biệt, hoàn toàn tùy thuộc vào cách thiết kế của nhà quản trị từng doanh nghiệp sao cho phù hợp và có tác dụng giúp nhà quản trị ra được các quyết định đúng đắn. Ta có thể mô phỏng cơ sở phân biệt kế toán tài chính và kế toán quản trị qua bảng sơ đồ sau: Kế toán Quản trị kế toán tài chính Nhà quản trị bên trong DN Thành phần bên ngoài DN hướng về tương lai linh hoạt tốc độ, thích hợp biểu diễn bằng giá trị và hiện vật Phản ánh quá khứ chính xác. Tuân thủ nguyên tắc kế toán biểu diễn dưới mọi hình thái giá trị Từng bộ phận khâu công việc Toàn Doanh nghiệp Căn cứ phân biệt Đối tượng phục vụ Đặc điểm của thông tin Phạm vi báo cáo thường xuyên Thường là một năm Kỳ báo cáo không có tính pháp lệnh có pháp lệnh Tính pháp lệnh 1.1.3. Nhiệm vụ của quản trị chi phí kinh doanh * Nhiệm vụ 1: Quản trị chi phí kinh doanh là một công cụ đắc lực cung cấp những tài liệu phục vụ cho quản trị. Đây là nhiệm vụ có tính chất bao trùm của công tác Quản trị chi phí kinh doanh. Nhờ quản trị chi phí kinh doanh mà toàn bộ hao phí được tập hợp và hạch toán không phụ thuộc vào việc chúng có gắn liền với các dòng vận động của tiền tệ hay không và cũng không phụ thuộc vào việc liệu có dẫn đến giá trị chi phí tài chính tương đương hay không? Nhờ đó các thông tin chi phí kinh doanh khác nhau được tập hợp lại, chế biến, lưu trữ và tiếp tục đưa vào sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Vì hệ thống thông tin phục vụ cho toàn bộ quá trình điều khiển doanh nghiệp đóng vai trò cực kỳ quan trọng, nên nhiệm vụ chủ yếu của quản trị chi phí kinh doanh doanh nghiệp. *Nhiệm vụ 2: Nhiệm vụ kế hoạch hoá. Để điều khiển có kết quả và hiệu quả các quá trình kinh tế diễn ra bộ máy quản trị doanh nghiệp phải luôn tìm cách để xác định trước được quá trình kinh doanh của doanh nghiệp có thể và cần phải diễn ra trong tương lai như thế nào? Để hoàn thành nhiệm vụ đó quản trị doanh nghiệp cần phải có các thông tin vừa phải đa dạng vừa phải đầy đủ. Nhờ có nhiệm vụ kế hoạch hoá của quản trị chi phí kinh doanh mà có thể xác định được các phương án hành động có thể và dự đoán trước được kết quả cũng như hậu quả của phương án đó. Nhiệm vụ này luôn gắn chặt với mục tiêu kinh doanh và phù hợp với mục tiêu đã đề ra. Nó tạo ra một cơ sở để lựa chọn và ra quyết định lựa chọn phương án kinh tế tối ưu. * Nhiệm vụ 3: Nhiệm vụ kiểm tra. Quản trị chi phí kinh doanh phải trả lời cho bộ máy quản trị doanh nghiệp các vấn đề cần thiết để bộ máy quản trị doanh nghiệp có thể điều khiển được các quá trình kinh doanh, kết hợp các yếu tố kinh tế với nhau để thực hiện mục tiêu kinh doanh với thời hạn gắn nhất. Nhờ có nhiệm vụ kiểm tra mà có thể loại bỏ nhanh nhất những khuynh hướng phát triển không may mắn và từ đó có thể “ lái” quá trình kết hợp các yếu tố trở lại theo kế hoạch vạch ra. Bộ máy quản trị doanh nghiệp và các đơn vị sản xuất có các tính toán kiểm tra phục vụ các cơ quan kiểm tra nhờ việc trước hết chúng mô tả chân thực các hiện tượng và quá trình xảy ra trong kinh doanh. Ngoài ra còn kiểm tra tính hiệu quả kinh tế của mỗi lượng chi phí: chi phí kinh doanh được quy định từ kế hoạch, được dựa trên cơ sở các phân tích có tính chất kinh tế kỹ thuật. Các lượng chi phí nàyđược so sánh với các chi phí thực tế. 1.2. Sự cần thiết phải tính chi phí kinh doanh một cách chính xác ở các doanh nghiệp Cơ chế thị trường hình thành và phát triển ở Việt Nam đã đẩy các doanh nghiệp từ chỗ được bao cấp hoàn toàn sang việc hạch toán độc lập lời ăn lỗ chịu theo đúng qui luật của thị trường. Từ chỗ chỉ lo làm theo kế hoạch không phải lo đầu vào, đầu ra cũng không phải trả lời câu hỏi sản xuất kinh doanh cái gì? Như thế nào? Cho ai? Các doanh nghiệp hiện nay đã phải trả lời câu hỏi này và phải xem xét, phân tích đánh giá vấn đề này một cách kỹ lưỡng. Muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh quyết liệt thì doanh nghiệp phải tự khẳng định chính bản thân mình. Cơ chế thị trường bán khó hơn mua thì sự cạnh tranh quyết liệt để bán được hàng là điều tất yếu. Để có sức cạnh tranh trên thị trường doanh nghiệp cần phải đổi mới, cải tiến sản xuất kinh doanh, mở rộng nâng cấp trang thiết bị cũ, tổ chức lại bộ máy quản trị và điều quan trọng hơn là doanh nghiệp cần phải hạch toán thu chi một cách chính xác và có các quyết định đúng đắn kịp thời. Để đạt được các điều kiện trên doanh nghiệp cần phải có các thông tin kinh tế cần thiết. Thông tin kính tế này có hai loại: + Thông tin phục vụ bên ngoài. + Thông tin phục vụ bên trong . Các thông tin phục vụ bên ngoài chủ yếu phục vụ các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước, cơ quan chủ quản do đó nó mang tính bắt buộc thống nhất và kiểm tra được. Ngoài ra các thông tin phục vụ bên ngoài còn phục vụ cho nhiều đối tượng khác như bạn hàng; khách hàng... Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng phải hiểu biết hết sức rõ ràng về bản thân mình thì mới có các quyết định đúng đắn. Về bản chất thì hoạt động quản trị chi phí kinh doanh là quá trình chuẩn bị và ra các quyết định quản trị do vậy bộ máy quản trị cần nắm rất rõ các thông tin hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới các quyết định quản trị. Như vậy có thể nói thông tin bên trong đặc biệt quan trọng hay quản trị chi phí kinh doanh là công cụ chủ yếu cung cấp thông tin kinh tế bên trong cho bộ máy quản trị doanh nghiệp làm cơ sở cho việc ra quyết định quản trị nên nó trở thành một công cụ chủ yếu không thể thiếu của quản trị doanh nghiệp. Quản trị là quan trọng do vậy khi ra các quyết định nhà quản trị phải đảm bảo tính chính xác và có hiệu quả của quyết định đề ra. Muốn làm được điều đó cần phải tính đến các vấn đề chi phí kinh doanh mà bản chất của nó là mô tả các quá trình có ý nghĩa kinh tế diễn ra trong kinh doanh. Trong các doanh nghiệp nước ta hiện nay nâng cao hiệu quả sản xuất để giảm lỗ trong kinh doanh (đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước) đang hết sức được quan tâm chủ yếu đến. Nguồn thu chủ yếu của doanh nghiệp là bán các sản phẩm dịch vụ vì thế bất cứ nghành nào cũng phải tính đến các chi phí bỏ ra để tính toán xem lỗ hay lãi. Hơn thế nữa phải còn biết rõ khối lượng sản phẩm hàng hoá là bao nhiêu và giá cả của nó như thế nào là phù hợp. Khi giá cả của thị trường đang cao hơn thì điều chỉnh giá cả và số lưọng để hạn chế thua lỗ. Việc tính chi phí không chính xác sẽ dẫn tới định giá bán không chính xác do đó không thể đưa ra một quyết định chính xác được. Hạch toán giá thành tuân theo nguyên tắc bắt buộc và được qui định thống nhất nên nó mang bản chất của kế toán tài chính và nó mang ít thông tin không thể đáp ứng được nhu cầu thông tin một cách chính xác mà cần phải tính chi phí kinh doanh thông qua các số liệu thông tin từ kế toán tài chính. Hạch toán giá thành mang trong đó quá nhiều nhược điểm và sự lạc hậu. Tự bản thân nó không thể tự hoàn thiện thành tính toán chi phí kinh doanh được mà nó phải xây dựng nên QTCPKD-KTQT (kế toán quản trị). Qua phân tích lý thyết và thực tế tính giá thành có thể đi đến kết luận là việc xây dựng công tác quản trị chi phí kinh doanh không được phép xem nhẹ ngay từ khâu đầu tiên mà cần phải xây dựng các cơ sở lý luận nkhoa học làm nền tảng cho sự phát triển một cách vững chắc. Do vậy tính chi phí kinh doanh là một khâu không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh cuả bất kỳ một xí nghiệp, doanh nghiệp kinh doanh nào. Tính và quản trị chi phí kinh doanh một cách chính xác- đảm bảo nguyên tắc “vừa đủ” tức bảo đảm được bí mật trong thông tin kinh doanh, nó sẽ tạo ra cho doanh nghiệp các điều kiện nắm bắt các cơ hội mới và tránh được nguy cơ có thể xảy ra. Ngoài ra tính chi phí kinh doanh còn cung cấp thông tin một cách nhanh chóng, liên tục và thường xuyên cho bộ máy quản trị doanh nghiệp. Giúp cho nhà quản trị luôn có thông tin cập nhật về tình hình doanh nghiệp để đưa ra các quyết định quản trị chính xác. Vì vậy tính chi phí kinh doanh một cách chính xác và quản trị chi phí kinh doanh là một công cụ quan trọng không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp. 1.3. Công cụ kế toán quản trị với các doanh nghiệp Kế toán là một công cụ cung cấp thông tin kinh tế cần tiết để quản trị doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, nhiệm vụ của kế toán là phản ánh một cách liên tục toàn bộ các quá trình kinh tế diễn ra trong doanh nghiệp bằng đơn vị tiền tệ. Tuy nhiên, hiện này việc sử dụng công cụ này có khác nhau giữa các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và nước ta. ở các nước này kế toán trong các doanh nghiệp được tiến hành theo hai phương pháp cụ thể hoàn toàn khác nhau cả về mục đích, nguyên tắc, nội dung, phương pháp tiến hành là kế toán tài chính và kế toán quản trị. Về lý thuyết, dưới đây có thể đề cập đến một vài luận cứ chủ yếu để hình thành hai phương pháp kế toán tài chính và kế toán quản trị doanh nghiệp. Thứ nhất, nhu cầu cung cấp thông tin của kế toán doanh nghiệp. Người ta phân các đối tượng cần nhận thông tin của doanh nghiệp thàn h hai loại là đối tượng bên ngoài và đối tượng bên trong. Đối tượng bên ngoài trước hết phải kể đến các cơ quan quản lý Nhà nước. ở các nước cơ quan tài chính luôn là cơ quan cần có thông tin để xác định và kiểm tra nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp. Ngoài ra, tuỳ theo từng nước mà người ta quy định doanh nghiệp có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý khác của Nhà nước, các viện nghiên cứu kinh tế... Các thông tin loại này phải phản ánh các tình trạng tài sản, tài chính và sản lượng của doanh nghiệp, phải đảm bảo tính pháp lý, phải được tính toán từ hệ thống tài khoản với chế độ hạch toán kép, vì thế mọi nước đều gọi phương pháp tạo ra nguồn thông tin loại này là kế toán tài chính. Như thế kế toán tài chính luôn có đặc điểm: chỉ phản ánh quá trình tài chính diễn ra trong doanh nghiệp theo các quy định thống nhất của Nhà nước. Đối tượng nhận thông tin bên trong là bộ máy quản trị doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp đều phải tự mình nắm bắt thị trường và thật am hiểu về thực trạng kinh tế - kỹ thuật bên trong của mình để ra các quyết định quản trị đúng đắn. Các thông tin về quá trình bên trong của doanh nghiệp không thể là các thông tin đối ngoại ở trên bởi lẽ thứ nhất, như trên đã trình bày, các thông tin đối ngoại chỉ đề cập đến các quá trình vận động tài chính giữa doanh nghiệp và môi trường chứ không phản ánh một cách cụ thể quá trình bên trong của doanh nghiệp: thứ hai, vì thông tin đối ngoại mang tính thống nhất và pháp lý nên chỉ có thể phản ánh theo nguyên tắc “trung bình”, chỉ trên cơ sở nguyên tắc “bình quân” này thì các quy định mới dễ được chấp nhận nhất. Mặc dù vậy, mức “bình quân” này không phải lúc nào cũng phản ánh được thực tế ở từng doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là mối quan hệ giữa các đối tượng nhận thông tin là mối quan hệ mâu thuẫn: nếu các thông tin đã được tạo ra theo nguyên tắc thống nhất sẽ phù hựp và đáp ứng được tốt nhất yêu cầu của các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, lại không phản ánh đúng thực trạng của từng doanh nghiệp cá biệt và do đó không đáp ứng được nhu cầu thông tin nội bộ. Đối lập với kế toán tài chính, kế toán quản trị doanh nghiệp phản ánh quá trình kinh tế tạo ra kết quả của doanh nghiệp, tức là nó dựa trên cơ sở số liệu của kế toán tài chính để tiếp tục tính toán và phản ánh chi tiết các quá trình kinh tế sản xuất diễn ra trong doanh nghiệp. Hoàn toàn khác về bản chất với kế toán tài chính, kế toán quản trị doanh nghiệp được tiến hành xuất phát từ nhu cầu thông tin và tình hình thực tế từng doanh nghiệp, không có khuôn mẫu bắt buộc và quy định chung. Thứ hai, xét trên giác độ bảo toàn vốn của doanh nghiệp lý thuyết kế toán đã đề cập đến hai nguyên tắc bảo toàn vốn là bảo toàn vốn về mặt giá trị và bảo toàn vốn về mặt hiện vật. Phản ánh quá trình tài chính diễn ra giữa doanh nghiệp và môi trường kinh doanh kế toán tài chính đã tuân thủ nguyên tắc bảo toàn vốn về mặt giá trị. Nguyên tắc bảo toàn vốn về mặt hiện vật lại không chú ý đến việc xác định xem với các kết quả thu được bảo đảm về mặt hiện vật trong điều kiện giá cả hoàn toàn ổn định. Cũng vì thế bên cạnh kế toán tài chính không thể không xây dựng kế toán quản trị doanh nghiệp theo nguyên tắc riêng, nguyên tắc bảo toàn tài sản doanh nghiệp về mặt hiện vật. Từ nhiều năm chúng ta chỉ duy trì chế độ kế toán thống nhất mà nếu xét về bản chất đó là kế toán tài chính. Song nếu xét cụ thể hơn về nội dung, chế độ kế toán của nước ta đã quy định vượt qua khỏi giới hạn của kế toán tài chính, tức là nó không dừng ở việc phản ánh quá trình diễn ra giữa doanh nghiệp và môi trường kinh doanh mà còn quy định phải phản ánh cả nội dung kinh tế thuộc về quá trình tạo ra kết quả của doanh nghiệp, ví dụ điển hình là chế độ hạch toán giá thành. Quan niệm và cách làm này đến nay không phù hợp bởi trong cơ chế kinh tế mới bí mật về thông tin kinh tế ở từng doanh nghiệp phải được bảo vệ nếu để lọt các thông tin quan trọng của doanh nghiệp ra ngoài các đối thủ cạnh tranh sẽ tiêu diệt doanh nghiệp. Điều này không những gây thiệt hại tài sản của bản thân doanh nghiệp mà còn gây
Tài liệu liên quan