Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với cơ chế thị trường mở rộng của nước ta như kích thích mọi thành phần kinh tế phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nền kinh tế đó, cùng với cơ chế quản lý, điều hành và các chính sách ban hành đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
71 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản tại tổng Công ty Chăn nuôi Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với cơ chế thị trường mở rộng của nước ta như kích thích mọi thành phần kinh tế phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nền kinh tế đó, cùng với cơ chế quản lý, điều hành và các chính sách ban hành đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong quá trình đi lên của nền kinh tế đất nước, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như là một cầu nối liên kết giữa nền kinh tế nước ta với nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã không ngừng lớn mạnh và đã đạt được những thành tựu đáng kể như mang lại nguồn ngoại tệ to lớn về cho đất nước, góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất kinh tế cũng đứng trước không ít khó khăn do cơ chế thị trường gây ra, sức mua đồng tiền trong nước giảm, sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp cũng như một số vấn đề bức xúc đặt ra trước các nhà doanh nghiệp là: làm thế nào tìm hiểu và áp dụng được những kỹ thuật nghiệp vụ thích hợp để tiếp cận và tạo lập được thị trường trong sản xuất kinh doanh. Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam cũng không nằm ngoài các doanh nghiệp đó.
Sau đợt thực tập thực tế và đã nắm bắt được một số tình hình cụ thể tại Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam, em mạnh dạn chọn đề tài "Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản tại tổng Công ty Chăn nuôi Việt Nam". Vì đây là một đề tài thú vị, mang tính cấp thiết và đặc biệt quan trọng đối với Tổng Công ty Chăn nuôi Việt Nam hiện nay.
Từ lý luận và thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam, cùng với một số sách báo, tài liệu tham khảo, kết hợp với những phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học kinh tế chính trị, ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như: Thống kê, xử lý số liệu, tổng hợp, phân tích đối chiếu, so sánh lô gíc, kết hợp lý luận và thực tiễn... nhằm rút ra những vấn đề có tính khái quát, phổ biến. Từ đó đưa ra những định hướng và biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam.
Tổng Công ty hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, nhiều mặt hàng. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu lĩnh vực xuất khẩu hàng súc sản của Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam giai đoạn 1997-2000. Như vậy, các lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác của Tổng Công ty sẽ không đề cập trong đề tài.
Ngoài lời cảm ơn, lời nói đầu, kết luận, nội dung đề tài được chia thành 3 chương:
* Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp .
* Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam.
* Chương III: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng súc sản tại Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam.
Do thời gian có hạn,kinh nghiệm cũng như trình độ còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những sai sót em rất mong được sự quan tâm chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Qua đây em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới tiến sĩ Nguyễn Thị Hường,các thầy cô giáo, các cô chú phòng xuất nhập khẩu Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
I – Khái niệm và Vai trò hoạt động xuất khẩu.
1. Khái niệm.
Xuất khẩu là việc bán hàng cho người nước ngoài và các dịch vụ kèm theo việc bán hàng hoá, xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Xuất khẩu, đó là việc bán sản phẩm hàng hoá trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, đồng thời phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong một không gian vô cùng rộng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá được vận chuyển ra ngoài biên giới quốc gia (trừ một số trường hợp đặc biệt).
Do vậy, các quốc gia khi tham gia vào hoạt động buôn bán giao dịch quốc tế đều phải tuân theo các thông lệ quốc tế hiện hành.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua các doanh nghiệp ngoại thương. Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia.
a) Đối với nền kinh tế quốc dân.
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Nó là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu của họ cho quá trình phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các quốc gia chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư va người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả được nợ.
Thứ hai, xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
- Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thê nhờ quy mô.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó.
+ Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản xuất mới.
+ Xuất khẩu cần có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phải sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá mà mình cần, mà thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần.
- Một cách nhìn nhận khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá thừa trong tiêu dùng nội địa:
Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không cơ cơ hội phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: Xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động.
Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một loại hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế... phát triển theo.
Ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
b) Đối với doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế.
Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng... Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Sản xuất hàng xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất không chỉ về chiều rộng mà cả về chiều sâu.
Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả hai bên đều có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia sẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của Công ty.
Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, masketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh. Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của mỗi quốc gia.
II.Các Hình thức xuất khẩu chủ yếu .
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, căn cứ vào nguồn hàng xuất khẩu... Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số hình thức xuất khẩu chủ yếu sau:
1. Hoạt động xuất khẩu trực tiếp:
Hoạt động xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hoá mà trong đó các doanh nghiệp ngoại thương bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến).
Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng hoá để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hoá từ các địa phương, các cơ sở sản xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hoá thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Xuất khẩu theo hình thức trực tiếp thông thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức xuất khẩu khác. Bởi vì các doanh nghiệp có thể mua được những hàng hoá có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hoá có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hoá.
Khi tiến hành theo hình thức xuất khẩu trực tiếp, doanh nghiệp ngoại thương có thể căn cứ vào nguồn hàng, vào khách hàng, đó là:
- Doanh nghiệp có thể tiến hành thu gom hàng hoá trước sau khi tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng. Cách này chỉ nên áp dụng cho trường hợp nguồn hàng khó khăn và đầu ra chắc chắn.
- Doanh nghiệp có thể tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với khách hàng nước ngoài trước, sau đó tiến hành thu gom hàng tại các đơn vị chân hàng trong nước. Nói chung đây là cách các doanh nghiệp thường thực hiện vì đầu ra hiện nay khó khăn và khả năng tài chính của các đơn vị còn hạn chế.
2. Hoạt động xuất khẩu uỷ thác:
Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị có hàng hoá uỷ thác. Trong hình thức này hàng hoá trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn thuộc sở hữu của đơn vị uỷ thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ còn nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hoá, kể cả việc vận chuyển hàng hoá và được hưởng một khoản tiền gọi là phí uỷ thác mà đơn vị uỷ thác trả.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện độ rủi ro thấp, doanh nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hoá và cũng không phải tự bỏ vốn ra để mua hàng. Tuy nhiên, phí uỷ thác mà doanh nghiệp nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh.
Doanh nghiệp ngoại thương có thể thực hiện hình thức xuất khẩu uỷ thác theo các bước sau:
- Ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu với các đơn vị trong nước có hàng hoá xuất khẩu.
- Ký kết hợp đồng xuất khẩu với khách hàng nước ngoài. Sau đó tiến hành giao hàng và thực hiện thanh toán tiền hàng.
- Nhận phí uỷ thác xuất khẩu từ đơn vị uỷ thác.
Trong thực tế, doanh nghiệp ngoại thương cũng có thể tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá với nước ngoài, sau đó tiến hành ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu với các đơn vị có hàng trong nước.
Hình thức xuất khẩu uỷ thác có thể áp dụng khi doanh nghiệp thiếu hàng cho khách hàng và các đơn vị cung cấp không muốn bán hàng cho doanh nghiệp mà họ chỉ muốn doanh nghiệp làm vai trò trung gian.
3. Buôn bán đối lưu:
3.1. Khái niệm:
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương, ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Vì những đặc điểm này người ta gọi hình thức này là xuất nhập khẩu liên kết hoặc phương thức đổi hàng.
3.2. Các loại hình buôn đối lưu.
-Nghiệp vụ hàng đổi hàng:Hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. -Trong nghiệp vụ bù trừ : Hai bên đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi giá trị hàng giao, đến cuối kỳ hạn, hai bên mới so sổ sách, đối chiếu giữa giá trị hàng hoá giao với giá trị hàng hoá nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
Trong nghiệp vụ bù trừ có các loại hình sau:
- Bù trừ theo nghĩa thực của nó.
- Bù trừ trước.
- Bù trừ song hành.
-Trong nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ :Bên nhập khẩu hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho một bên thứ 3. Nghiệp vụ này bảo đảm cho các công nghiệp khi nhận hàng đối lưu không phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của mình có thể bán hàng đó đi.
Nghiệp vụ buôn bán đối lưu này doanh nghiệp ngoại thương có thể sử dụng để nhập khẩu những loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba.
-Trong giao dịch bồi hoàn : Người ta đổi hàng hoá hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ và ưu huệ (như ưu hệ trong đầu tư hoặc giúp đỡ bàn sản phẩm).
Giao dịch bồi hoàn hiện nay chiếm gần 1/4 số hợp đồng buôn bán đối lưu. Nó thường xảy ra trong lĩnh vực buôn bán những kỹ thuật quân sự đắt tiền trong việc giao những chi tiết và cụm chi tiết trong khuôn khổ hợp tác công nghiệp.
4. Đấu giá quốc tế:
4.1. Khái niệm.
Đấu giá quốc tế là một phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi nhất định, tại đó sau khi xem trước hàng hoá, những người đến mua tự do cạnh tranh giá cả và cuối cùng, hàng hoá sẽ được bán cho người nào trả giá cao nhất.
4.2.Cách thức tiến hành.
- Chuẩn bị đấu giá, bao gồm:
+ Chuẩn bị hàng hoá: hàng được phân thành từng lô căn cứ theo chất lượng, kích cỡ của chúng.
+ Xây dựng thể lệ đấu giá: trong đó, người ta thường quy định về trách nhiệm của người mua phải xem hàng trước (người bán không chịu trách nhiệm về phẩm chất hàng), về khoản tiền ký quỹ khi tham dự đấu ta, về mức mặc cả đặt giá...
+ in ca-ta-lô về những lô hàng sẽ đem ra đấu giá.
+ Đăng quảng cáo để thông báo về ngày, giờ, địa điểm tiến hành, số lượng mặt hàng đấu giá, thể lệ đấu giá...
- Trưng bày hàng hoá để người mua không xem hàng thì sau này cũng mất quyền khiếu nại về chất lượng hàng.
- Tiến hành đấu giá: nơi bán đấu giá thường có hình thức của một hội trường. Trên bục cao, nhân viên đấu giá điều khiển cuộc đấu giá với tư cách đại diện cho bên bán.
Cuộc đấu giá tiến hành theo một trong hai phương pháp sau:
+ Phương pháp nâng giá: nhân viên đấu giá nên giá khởi điểm thấp nhất của lô hàng, sau đó khách hàng có mặt nâng giá dẫn theo một mức mặc cả quy định.
+ Phương pháp hạ giá: nhân viên đấu giá nêu giá khởi điểm cao nhất rồi hạ giá dẫn tới khi có người đồng ý mua.
- Ký kết hợp đồng và giao hàng: sau cuộc đấu giá người thắng cuộc đến Ban Tổ chức ký kết hợp đồng và trả một phần tiền hàng. Sau một thời gian ngắn thường từ 3 đến 14 ngày người mua phải trả tiền nốt và lấy hàng đi.
5. Giao dịch tái xuất.
5.1. Khái niệm.
Tái xuất là xuất khẩu những hàng hoá ngoại quốc từ kho hải quan, chưa qua chế biến ở nước mình. Hay tái xuất là lại xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giai đoạn này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
5.2. Các loại hình tái xuất.
Tái xuất có thể được thực hiện bằng một trong hai hình thức sau:
- Tái xuất theo đúng nghĩa của nó, trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền: nước tái xuất trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền cả nước nhập khẩu.
- Chuyển khẩu, trong đó hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước nhập khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu.
5.3. Ký kết hợp đồng tái xuất.
Người kinh doanh tái xuất thường ký một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu. Hai hợp đồng này về cơ bản không khác những hợp đồng xuất nhập khẩu thông thường, song chúng có liên quan mật thiết với nhau. Chúng thường phù hợp với nhau về hàng hoá, bao bì, mẫu hiệu, nhiều khi cả về thời gian giao hàng và các chứng từ hàng hoá. Việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu phải tạo cơ sở đầy đủ và chắc chắn cho việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Về mặt thanh toán, nhiều hợp đồng tí xuất quy định dùng phương thức thư tín dụng giáp lưng (back to back L/C). Người tái xuất thường có dàn xếp để chậm trả tiền hàng nhập và nhanh chóng thu tiền hàng xuất. Nhờ những biện pháp đó, người tái xuất thu được cả lợi tức về tiền hàng trong khoảng thời gian chênh lệch.
Như vậy, có thể có rất nhiều các hình thức xuất khẩu khác nhau. Các doanh nghiệp ngoại thương nên lựa chọn thực hiện các hình thức xuất khẩu phù hợp với doanh nghiệp mình. Chủ trương là tận dụng tối đa khả năng sẵn có cũng như tăng khả năng đó để da dạng hoá các loại hình xuất khẩu hàng hoá.
III. Nội dung của hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp.
Xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Hoạt động xuất khẩu phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau, đòi hỏi nhà kinh doanh phải hết sức thận trọng, linh hoạt để nắm bắt được thời cơ, giảm rủi ro và thu được lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo các loại hình xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như các bước tiến hành có những nét đặc trưng riêng. song trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá