Hà Tây là tỉnh thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, là tỉnh giàu tiềm năng về đất đai, tài nguyên, nguồn nhân lực. Qua mười năm đổi mới nhất là giai đoạn 1996-2000 kinh tế Hà Tây đã có sự phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Trong năm năm (1996-2000), GDP tăng bình quân hàng năm 7,3%, GDP bình quân đầu người đạt 315 USD/ năm . Cơ cấu GDP có bước chuyển biến rõ nét theo hướng tích cực.
65 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Hà Tây là tỉnh thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, là tỉnh giàu tiềm năng về đất đai, tài nguyên, nguồn nhân lực. Qua mười năm đổi mới nhất là giai đoạn 1996-2000 kinh tế Hà Tây đã có sự phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Trong năm năm (1996-2000), GDP tăng bình quân hàng năm 7,3%, GDP bình quân đầu người đạt 315 USD/ năm . Cơ cấu GDP có bước chuyển biến rõ nét theo hướng tích cực. Năm 1995 cơ cấu GDP là: Nông nghiệp-Công nghiệp-Dịch vụ (48,3-25,3%-26,3%). Năm 2000 cơ cấu là: Nông nghiệp-Công nghiệp-Dịch vụ (41%-30,5%- 8,5%)...Có được kết quả như trên là do sự cố gắng của các ngành các cấp trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành thương mại tỉnh. Con số 28,5% là con số đầy ý nghĩa trong điều kiện những năm đổi mới, những năm gần đây hoạt đông thương mại của tỉnh gặp rất nhiều khó khăn về cơ chế chính sách, về cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành, về vốn, về tổ chức mạng lưới thương mại ...vv.Trong những năm qua hoạt đông thương mại trên địa bàn tỉnh diễn ra sôi động phong phú và có được kết quả đáng khích lệ tạo điều kiện để các hoạt động kinh tế khác phát triển, nhất là đã giải quyết tốt việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho nông dân, phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo điều kiện cho phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất, khai thác tốt các tiềm năng và thế mạnh của tỉnh...vv.
Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ IX đặt ra mục tiêu đến năm 2005 là:
* Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm 8%.
* Giá trị sản xuất Nông nghiệp tăng 4-5%/ năm, CN-TTCN tăng 12%/ năm, TM-DV-DL tăng 8-9%/ năm.
* Kinh ngạch xuất khẩu tăng 15%/ năm.
* Cơ cấu GDP đến 2005: N2-CN & XDCB-TMDVDL lần lượt tương ứng 35%-35%-30%.
Yêu cầu về phát triển kinh tế như trên đòi hỏi ngành thương mại cần đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh hơn nữa. Việc đẩy mạnh hoạt đông thương mại không phải không thể làm được, nếu chúng ta có các giải pháp đúng đắn khắc phục được khó khăn, phát huy thế mạnh tiềm năng của tỉnh, phù hợp với thực trạng của hoạt động thương mại và lý luận phát triển thương mại thì nhất định sẽ đẩy mạnh được. Góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh em mạnh dạn nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong bài viết có tựa đề: “Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Tây”.
Bài viết gồm :
Lời mở đầu
Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động thương mại và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động thương mại đang thực hiện trên địa bàn Hà Tây.
Chương III: Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn Hà Tây
Kết luận.
Với kiến thức còn hạn chế, thời gian tiếp xúc với thực tế chưa nhiều, bài viết chắc chắn còn có thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo, bạn đọc để việc nghiên cứu đề tài này hoàn hảo hơn.
Với tất cả lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn:
+ Ban giám đốc, các cô chú ở Sở thương mại Hà Tây.
+ Các thầy cô giáo trong khoa Khoa học Quản lý đã dìu dắt em trong quá trình học tập tại trường và tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt bài viết này.
+ Xin đặc biệt cảm ơn TS Mai Văn Bưu Trưởng khoa Khoa học Quản lý, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo để em hoàn thành bài viết này.
+ Xin đặc biệt cảm ơn CN Nguyễn Văn Đồng Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp Sở thương mại Hà Tây, người đã hướng dẫn, chỉ bảo và tạo điều kiện tốt nhất cho em trong quá trình thực tập tại Sở thương mại Hà Tây.
Hà Tây ngày 22 tháng 03 năm 2001.
Sinh viên
Nguyễn Nguyên Dũng.
Chương I:
Cơ sở lý luận về hoạt động thương mại
Khái niệm hoạt động thương mại.
Theo bộ luật thương mại:
“Hoạt động thương mại là việc thực hiện các hành vi thương mại.”
+ Hành vi thương mại là hành động của thương nhân nhằm mục đích thu lợi nhuận, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa thương nhân với các bên có liên quan trong thương mại (Thương mại là sự trao đổi, mua, bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ thương mại nhằm mục đích thu lợi nhuận).
+ Hành vi thương mại gồm các hành vi sau:
Một là: Mua hàng hoá để bán lại cho người tiêu dùng hoặc cho thương nhân khác.
Hai là: Mua máy móc, thiết bị, nguyên, vật liệu ... để sản xuất hàng hoá và bán các hàng hoá đó .
Ba là: Mua, bán, cho thuê và thuê cơ sở thương mại.
Bốn là: Sử dụng hối phiếu.
Năm là: Đại diện thương mại.
Sáu là: Môi giới thương mại.
Bảy là: Uỷ thác mua bán hàng hoá.
Tám là: Đại lý mua, bán hàng hoá.
Chín là: Thuê mua tài chính.
Mười là: Gia công trong thương mại.
Mười một là: Đấu thầu hàng hoá.
Mười hai là: Đấu giá hàng hoá.
Mười ba là: Giao nhận kho vận.
Mười bốn là: Giám định hàng hoá.
Mười năm là: Quảng cáo thương mại.
Mười sáu là: Trưng bày và giới thiệu hàng hoá.
Mười bảy là: Hội chợ triển lãm thương mại.
Việc mua, bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ giữa thương nhân với bên không phải thương nhân cũng được coi là hành vi thương mại đối với thương nhân khi hành vi đó của thương nhân được thực hiện nhằm mục ddích thu lợi nhuận.
Như vậy tương ứng với các hành vi thương mại có các hoạt động thương mại. Tuy nhiên còn nhiều cách phân loại khác.
Phân loại
* Căn cứ vào nội dung, hoạt động thương mại phân thành 14 hoạt động như trên.
* Căn cứ vào chủ thể hoạt động thương mại phân ra:
+ Thương mại Nhà nước.
+ Thương mại ngoài Nhà nước.
* Căn cứ vào tính chất của hàng hoá, dịch vụ hoạt động thương mại phân thành
+ Thương mại hàng hoá hữu hình.
+ Thương mại hàng hoá vô hình.
Đặc điểm của hoạt động thương mại.
Hoạt động thương mại là quá trình thực hiện hành vi thương mại. Do đó nó có các đặc điểm sau:
+ Mục đích của hoạt động thương mại là lợi nhuận.
Đặc điểm này cho phép phân biệt hoạt động thương mại với một số hoạt động khác. Hoạt động thương mại là hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá dịch vụ ... trên thị trường, nhưng không phải cứ hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ nào trên thị trường đều là hoạt động thương mại. Chỉ khi nào các hoạt động đó vì mục đích lợi nhuận mới là hoạt động thương mại.
+ Hoạt động thương mại chịu ảnh hưởng của một số nhân tố như cơ chế, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, bối cảnh chính trị, nhận thức của thương nhân, quan niệm của con người về giá trị ...vv.
+ Hoạt động thương mại chỉ diễn ra khi sản xuất hàng hoá phát triển đến một trình độ nhất định.
Rõ ràng rằng khi sản xuất chưa phát triển, của cải làm ra chưa nhiều chưa dư thừa thì không có sự trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ dẫn đến không có hoạt động thương mại.
+ Ai cũng có thể tiến hành hoạt động thương mại.
Điều này quá rõ ràng vì muốn tồn tại con người phải trao đổi hàng hoá & dịch vụ để thoả mãn các nhu cầu. Nếu ai đó bị cấm tiến hành mọi hoạt động thương mại chắc chắn khó tồn tại và phát triển. Tuy nhiên trong một số hoạt động thương mại chỉ một số người, tổ chức mới được phép tiến hành theo luật định.
4) Vai trò của hoạt động thương mại đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của một tỉnh
4.1) Hoạt động thương mại thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ, tạo động lực kích thích đối với người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên canh, chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá lớn ở tỉnh.
4.2) Hoạt động thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất trong tỉnh.
Hoạt động thương mại có mục đích là lợi nhuận. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách để cải tiến công tác, áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới, hạ chi phí để thu nhiều lợi nhuận. Đồng thời cạnh trạnh trong hoạt động thương mại bắt buộc người sản xuất trong tỉnh phải năng động, không ngừng nâng cao tay nghề, chuyên môn và tính toán thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất lao động. Đây là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển .
4.3) Hoạt động thương mại kích thích nhu cầu và tạo ra nhu cầu mới.
Người tiêu dùng mua bán không xuất phát từ tình cảm mà bằng lý trí. Lợi ích của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tái tạo nhu cầu. Hoạt động thương mại một mặt làm cho cầu trên thị trường trung thực với nhu cầu, mặt khác nó làm bộc lộ tính phong phú đa dạng của nhu cầu. Hoạt động thương mại đáp ứng tốt hơn là chế độ trao đổi hiện vật. Thương mại buộc các nhà sản xuất phải đa dạng hoá kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Điều này tác động ngược trở lại người tiêu dùng làm bật dậy các nhu cầu tiềm tàng. Do vậy hoạt động thương mại làm tăng trưởng nhu cầu và là gốc rễ cho sự phát triển của sản xuất kinh doanh.
4.4) Hoạt động thương mại góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hoá, tham gia bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, xây dựng xã hội văn minh đặc biệt là khu vực miền núi, nông thôn, hải đảo.
Vai trò này của hoạt động thương mại có thể thấy qua vai trò của chợ. Chợ phát triển đặc biệt là chợ chuyên doanh, chợ bán buôn phát luồnglà bước khởi đầu của phát triển đô thị, ở khu vực nông thôn dần dần hình thành thị trấn. Thông qua nhu cầu của lưu thông hàng hoá một loạt lĩnh vực khác như đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống dịch vụ khác phát triển làm thay đổi từng bước bộ mặt của một vùng dân cư. Ơ miền núi chợ là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần của người dân. ở đây diễn ra các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc, các sản phẩm văn hoá được bày bán, từ đó góp phần làm cho văn hoá phát triển và được giữ gìn.
4.5) Hoạt động thương mại góp phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện cho xây dựng cơ bản phát triển, thu hút vốn nhàn rỗi của nhân dân vào sản xuất.
Hoạt động thương mại diễn ra đòi hỏi một lượng nhân công nhất định. Càng có nhiều hoạt động thương mại càng cần nhiều người làm càng giải quyết tốt việc làm cho nguồn nhân lực trong tỉnh và tạo thu nhập cho họ.
Hoạt động thương mại còn đóng góp cho ngân sách một khoản không nhỏ. UBND tỉnh thu thuế từ hoạt động thương mại như thuế môn bài, thuế chợ, thuế chuyến, thuế XNK, thuế thu nhập doanh nghiệp...
Muốn hoạt động thương mại tốt cần phải có cơ sở vật chất kỹ thuật tốt do đó hoạt động thương mại đặt ra yêu cầu tất yếu phải xây dựng và đầu tư từ đó khiến cho tốc độ XDCB trên địa bàn tỉnh tăng nhanh. Đồng thời hoạt động thương mại còn cung ứng đầy đủ các yếu tố sản xuất cho hoạt động sản xuất và hoạt động XDCB.
Khi tiến hành hoạt động thương mại mà dễ dàng thuận lợi thì sẽ có nhiều người tiến hành do vậy vốn được bỏ vào kinh doanh không còn nhàn rỗi nữa.
4.6) Hoạt động thương mại mở ra các mối quan hệ kinh tế của tỉnh với các tỉnh khác trong vùng và cả nước, mở rộng quan hệ quốc tế.
Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, hội chợ triển lãm,... người sản xuất trong tỉnh có thể giới thiệu sản phẩm, tiếp cận với khách hàng từ tỉnh bạn và nước ngoài để ký kết hợp đồng hợp tác làm ăn. Đồng thời khách hàng cũng có thể biết đến tỉnh có thế mạnh gì, tiềm năng ra sao, chính sách phát triển thế nào thông qua hoạt động thương mại từ đó mà tìm đến mua hàng, bán hàng, đặt quan hệ kinh tế,văn hoá... với các doanh nghiệp, người làm ăn kinh tế trong tỉnh.
5) Một số nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thương mại của một tỉnh.
5.1) Vị trí địa lý.
Vị trí địa lý có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thương mại của một tỉnh. Nếu tỉnh nằm ở vùng có nhiều thuận lợi về giao thông, thông tin liên lạc; gần các trung tâm thương mại, kinh tế, văn hoá lớn; tiếp giáp với các thị trường có nhu cầu tiêu thụ hàng hoá của tỉnh, gần các cửa khẩu... thì chắc chắn hoạt động thương mại sẽ dễ dàng và thuận lợi vì chi phí vận chuyển có thể thấp, dễ có quan hệ buôn bán hợp tác với các đối tác khác, xuất nhập khẩu dễ hơn...Ngược lại tỉnh ở vị trí không gần các thị trường tiêu thụ lớn các hàng hoá, không có hệ thống đường giao thông quan trọng của cả nước đi qua, hệ thống thông tin liên lạc không được phát triển ở đây... hoạt động thương mại sẽ rất khó khăn. Vì hàng hoá sản xuất ra không có thị trường lớn để tiêu thụ, chí phí sẽ cao vì giao thông khó khăn, khó có các hàng hoá dịch vụ phục vụ sản xuất hơn...
5.2) Trình độ phát triển kinh tế của tỉnh.
Kinh tế của tỉnh phát triển ở trình độ thấp, hàng hoá có không nhiều hoặc có nhưng chất lượng không cao, hệ thống cơ sở hạ tầng không phát triển, sức mua của dân cư thấp, thu nhập của người làm kinh tế không cao,... chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thương mại.Vì kinh tế phát triển ở trình độ cao thì thu nhập của dân cư trong tỉnh cao cầu sẽ cao, hàng hoá có nhiều với chất lượng khá, đa dạng về chủng loại nguồn hàng dồi dào sẽ làm cho hoạt động thương mại diễn ra đa dạng ... Thực tế cũng chứng minh ở đâu kinh tế phát triển thì hoạt động thương mại sẽ phát triển. Kinh tế phát triển là điều kiện cần cho hoạt động thương mại phát triển nhưng ngược lại hoạt động thương mại phát triển cũng làm cho kinh tế phát triển.
5.3) Tình hình kinh tế-chính trị-xã hội các tỉnh lân cận, trong nước, khu vực, quốc tế.
Các tỉnh lân cận thường có quan hệ hợp tác rất tốt với tỉnh, đây cũng là các thị trường có quan hệ mật thiết đối với thị trường của tỉnh. Tình hình kinh tế-chính trị-xã hội của các tỉnh lân cận rối ren, ảm đạm sẽ ảnh hưởng tới cầu cho hàng hoá của tỉnh ảnh hưởng đến hoạt động thương mại.
Đất nước không ổn định về chính trị, kinh tế không phát triển, xã hội biến loạn thì ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế, tình hình chính trị-xã hội của tỉnh vì tỉnh là một bộ phận của quốc gia. Do đó ảnh hưởng đến hoạt động thương mại của tỉnh. Không thể phát triển kinh tế nói chung cũng như phát triển hoạt động thương mại nói riêng được khi đất nước nội chiến, bị xâm lược, chiến tranh, hoả hoạn thiên tai... Đất nước ổn định về chính trị, phát triển kinh tế, phát triển xã hội là một tiền đề cần thiết cho phát triển hoạt động thương mại của cả nước nói chung và của một tỉnh nói riêng.
Các nước trong khu vực, quốc tế không ổn định về chính trị, kinh tế khủng hoảng cũng sẽ ảnh hưởng đến nước ta, và ảnh hưởng đến một tỉnh nói riêng. Tỉnh có quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực, quốc tế càng rộng bao nhiêu thì mức độ ảnh hưởng càng lớn bấy nhiêu. Hoạt động ngoại thương của tỉnh phụ thuộc vào các thị trường nước ngoài. Nếu các thị trường này biến động sẽ làm cho hoạt động ngoại thương của tỉnh biến động theo. Có thể theo chiều hướng tích cực nếu thị trường các nước biến động theo chiều hướng tích cực và ngược lại.
5.4) Thị trường các tỉnh lân cận, trong nước, quốc tế.
Một tỉnh chỉ có thể sản xuất một số mặt hàng nhất định, chỉ có một số yếu tố đầu vào cho sản xuất nhất định. Do vậy buộc phải buôn bán với bên ngoài để có những cái còn thiếu cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Các tỉnh lân cận là những nơi mua hàng của tỉnh, cung cấp các hàng hoá tỉnh cần cho sản xuất, cho xuất khẩu, cho nhập khẩu, cho tiêu dùng. Tỉnh nào gần nơi cung cấp nguồn nguyên nhiên liệu, khoa học kỹ thuật công nghệ, nguồn hàng hoá tiêu dùng,... sẽ có điều kiện phát triển kinh tế tốt. Tỉnh nào có thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình sẽ phát triển kinh tế thuận lợi. Các tỉnh khác vừa là thị trường vừa là nguồn hàng dồi dào để cho thương nhân của tỉnh khai thác tiến hành hoạt động thương mại.
Thị trường các nước trên thế giới sẽ ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương của tỉnh. Tỉnh xuất các mặt hàng các nước cần và nhập các mặt hàng tỉnh cần từ nước ngoài. Nhu cầu, cơ cấu nhu cầu, thói quen tiêu dùng, đặc điểm thị trường các nước sẽ ảnh hưởng đến nội dung và hình thức hoạt động ngoại thương của tỉnh. Kết quả hoạt động ngoại thương của tỉnh phụ thuộc vào khả năng tìm kiếm, khai thác thị trường xuất nhập khẩu nước ngoài, khả năng cung cấp hàng hoá dịch vụ với chất lượng tốt nhất,...
5.5) Quan điểm, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Chính phủ, UBND tỉnh về thương mại.
Rõ ràng khó phát triển hoạt động thương mại khi quan điểm, đường lối của Đảng không muốn, chính sách, pháp luật của Chính phủ, UBND tỉnh có nhiều vấn đề đặt ra không hợp thực tế và quy luật khách quan. Quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật về thương mại của các cấp uỷ Đảng, Chính phủ và UBND các cấp có ảnh hưởng trực tiếp dến hoạt động thương mại. Để hoạt động thương mại phát triển cần có quan điểm, chính sách tốt nghĩa là các quan điểm, chính sách đó phù hợp những gì thực tế đòi hỏi, phải giải quyết được các vướng mắc trong khi tiến hành hoạt động thương mại.
5.6) Nhận thức tư tưởng và trình độ của thương nhân trong tỉnh.
Đây là nhân tố khá ảnh hưởng. Khi nhận thức, tưởng chưa thông thì hành động khó có kết quả tốt, trình độ mà kém khó nghĩ ra phương án hay để nắm bắt cơ hội và tạo ra cơ hội làm ăn. Trong hoạt động thương mại thương nhân đóng vai trò chính. Nhận thức tư tưởng, trình độ của thương nhân kém sẽ hạn chế sự phát triển của hoạt động thương mại và ngược lại.
5.7) Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của tỉnh.
Hàng hoá, dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao dễ giành thắng lợi trong việc giành hợp đồng cung cấp hàng hoá, dịch vụ do vậy hoạt động thương mại dễ diễn ra. Đồng thời hàng hoá dịch vụ có khả năng cạnh tranh cũng dễ mở rộng quan hệ thương mại với các đối tác làm ăn bên ngoài, dễ mở rộng thị trường và giữ thị trường đã có do đó khiến cho hoạt động thương mại phát triển.
5.8) Cơ sở hạ tầng cho hoạt động thương mại.
Cơ sở hạ tầng kém sẽ ảnh hưởng không chỉ đến hoạt động thương mại mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế nói chung. Cơ sở hạ tầng cho hoạt động thương mại gồm các chợ, các cửa hàng buôn bán hàng hoá, trụ sở văn phòng giao dịch, trung tâm thương mại, siêu thị, trung tâm xúc tiến thương mại,... Nếu các cơ sở hạ tầng nói trên nằm ở vị trí thuận lợi như mặt đường, đầu mối giao thông, gần khu dân cư, có điện nước, có dịch vụ thông tin liên lạc viễn thông,... tốt, lại được xây dựng khang trang sach sẽ cảnh quan tươi đẹp, giá thuê hợp lý,... thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều người mua người bán nhờ vậy hoạt động thương mại sẽ diễn ra sôi động phong phú giải quyết tốt đầu ra cho sản xuất và làm sống động một vùng dân cư.
5.9) Thu nhập của dân cư trong tỉnh.
Thu nhập của dân cư trong tỉnh có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thương mại của tỉnh. Vì thu nhập dân cư ảnh hưởng đến nhu cầu và cơ cấu cầu về các hàng hoá, dịch vụ mà cầu và cơ cấu nhu cầu sẽ quyết định đến nội dung và hình thức của hoạt động thương mại. Thu nhập thấp sẽ dẫn đến cầu hàng hoá dịch vụ thấp sẽ hạn chế hoạt động thương mại và ngược lại.
5.10) Sự quản lý Nhà nước của cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại và sự hoạt động của các doanh nghiệp thương mại.
Các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại ở các huyện thị và Sở thương mại tỉnh có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển hoạt động thương mại trên địa bàn. Các cơ quan này có nhiệm vụ quy hoạch, kế hoạch sự phát triển các hoạt động thương mại trên địa bàn, lập chiến lược phát triển thương mại, cấp giấy phép và xem xét các hoạt động kinh doanh thương mại, phổ biến và kiểm tra việc thực hiện các văn bản pháp luật về thương mại của Nhà nước, đào tạo cán bộ làm công tác thương mại, chỉ đạo các cơ quan trực thuộc chống buôn lậu, làm hàng giả, chống gian lận thương mại, chống đầu cơ lũng đoạn thị trường, quản lý các hoạt động xúc tiến thương mại trên địa bàn,... Sự hoạt động có hiệu quả hay nói khác đi là sự quản lý Nhà nước có hiệu quả của các cơ quan này sẽ làm cho hoạt động thương mại phát triển bởi vì các công việc họ làm chính là việc thực hiện cơ chế, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tạo cơ sở hạ tằng cho hoạt động thương mại. Các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại hoạt động không hiệu quả thì sự quản lý Nhà nước về thương mại bị buông lỏng điều này sẽ khiến cho thị trường không lành mạnh, các hoạt động thương mại phát triển tự phát không theo định hướng. Muốn hoạt động thương mại phát triển cần thiết phải có sự quảnlý Nhà nước có hiệu quả.
Các doanh nghiệp thương mại của tỉnh có vai trò rất quan trọng trong việc đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn. Bởi vì thông qua hoạt động của mình các doanh nghiệp thương mại đã phát triển và mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng cung cấp và tiêu thụ sản phẩm cho cả tỉnh. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp thương mại đóng góp