Trong điều kiện hiện nay khi ngày càng có nhiều nhà sản xuất tham gia vào thị trường thì việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp ngày càng khó khăn, sự cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng vô cùng quyết liệt. Sức cạnh tranh của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra có thể nói là điều kiện sống còn đối với doanh nghiệp.
89 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH nội thất Đại Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
Trong điều kiện hiện nay khi ngày càng có nhiều nhà sản xuất tham gia vào thị trường thì việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp ngày càng khó khăn, sự cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng vô cùng quyết liệt. Sức cạnh tranh của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra có thể nói là điều kiện sống còn đối với doanh nghiệp. Do đó mỗi doanh nghiệp phải biết tận dụng tối đa được nội lực của mình, phải nắm bắt được các thông tin trên thị trường như: Sự biến động của nhu cầu người tiêu dùng, xu thế, thị hiếu người tiêu dùng, các động thái của đối thủ cạnh tranh...Đi đôi với những công tác trên thì doanh nghiệp cũng không thể tách mình ra khỏi xu thế liên tục phát triển của xã hội, đó là muốn tạo được thị trường đầu ra vững chắc cho sản phẩm của mình, muốn tạo được thế và lực lớn mạnh hơn nữa trong tương lai cho doanh nghiệp thì lựa chọn của doanh nghiệp đó là phải mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng tầm ảnh hưởng của mình trên thị trường.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đã gia nhập WTO và hoà mình vào xu thế quốc tế hoà toàn cầu hoá thì đây cũng là giai đoạn mở ra cơ hội cho các doanh nghệp trong nước nhưng đi đôi với nó là cũng có vô vàn khó khắn thách thức mà đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại được đổi mới, thích nghi được với yêu cầu mới của thị trường.
Là một công ty trẻ trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh các sản phẩm về nội thất cho văn phòng và nội thất cho trường học công ty TNHH nội thất Đại Dương đã nhân thức được rằng muốn khẳng định được vị trí và tìm được chỗ đứng vững chắc của mình trên thị trường, đặc biệt trong giai đoạn mở của hiện nay với sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt của thị trường nội thất trong nước nhất là các sản phẩm nội thất được nhập từ nước ngoài như: Hồng Kông, Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc...Thì công ty phải không những nâng cao được chất lượng sản phẩm của mình, khẳng định và chiếm được lòng tin của khách hàng công ty còn phải liên tục tìm kiếm thị trường mới, mở rộng được thị trường đầu ra cho sản phẩm của mình.
Nhận thức được điều đó sau một thời gian thực tập tại công ty TNHH nội thất Đại Dương tôi đã quyết định chọn đề tài " Một số giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH nội thất Đại Dương" để làm báo cáo chuyên đề của mình.
nội dung gồm có 3 phần:
Chương 1: Một ssó lý luận về thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH nội thất Đại Dương.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH nội thất Đại Dương.
Trước một đề tài lớn và sâu rộng, đòi hỏi kiến thức tổng hợp, nhưng do có nhiều mặt hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế tôi rất mong sự góp ý của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên và cán bộ công ty TNHH nội thất Đại Dương để chuyên đề hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cán bộ, công nhân viên của công ty TNHH nội thất Đại Dương đã giúp tôi thực hiện đề tài này. Và đặc biệt tôi xin trân trọng cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Th.S Đặng Thị Lệ Xuân đã tận tình giúp đỡ tôi thực hiện và hoàn thanh báo cáo này.
Hà nội ngày 07 tháng 05 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Trịnh Văn Trường
Chương I.
Một số vấn đề lý luận về thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
I/ Một số quan điểm cơ bản về thị trường:
Khái niệm về thị trường:
Theo C.Mác hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra không phải để người sản xuất tiêu dùng mà sản xuất ra để bán. Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá và được hình thành trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Người có sản phẩm hoặc dịch vụ đem ra trao đổi gọi là bên bán, người mua để thoã mãn nhu cầu và có khả năng thanh toán được gọi là bên mua .
Trong quá trình trao đổi giữa bên bán và bên mua đã hình thành những mối quan hệ nhất định. Đó là quan hệ giữa người bán và người mua, quan hệ giữa người bán với nhau và quan hệ giữa người mua với nhau.
Vì vậy theo nghĩa đen thị trường là nơi mua bán trao đổi hàng hoá, là nơi gặp gỡ để tiến hành hoạt động mua bán giữa người bán và người mua. Tuy nhiên, không thể coi thị trường là các cửa hàng, các chợ, mặc dù những nơi đó là nơi mua bán hàng hoá.
Sự hình thành thị trường đòi hỏi phải có:
- Đối tượng để trao đổi: sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ.
- Đối tượng tham gia trao đổi : Bên bán và bên mua.
- Điều kiện thực hiện trao đổi : Khả năng thanh toán
Như vậy điều quan tâm nhất của doanh nghiệp là tìm ra thị trường, tìm nhu cầu và khả năng thanh toán cho các sản phẩm, dịch vụ mà nhà sản xuất dự định cung ứng. Còn đối với người tiêu dùng, họ lại quan tâm tới việc so sánh những sản phẩm dịch vụ mà nhà sản xuất cung ứng có thoả mãn đúng yêu cầu và thích hợp với khả năng thanh toán của mình đến đâu.
Từ những quan điểm trên thị trường được định nghĩa như sau:
Thị trường là biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện các quyết định của người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ cũng như các quyết định của các doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, mẫu mã của hàng hoá. Đó chính là mối quan hệ giữa tổng số cung và tổng số cầu của từng loại hàng hoá cụ thể.
Tuy nhiên thị trường cũng có nhiều định nghĩa khác nhau. Hội quản trị Hoa Kỳ cho rằng: “Thị trường là tổng hợp các lực lượng và các điều kiện, trong đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người bán sang người mua’’. Có nhiều quan niệm lại cho rằng “ thị trường là lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua và người bán cạnh tranh với nhau để xác định gía cả hàng hoá dịch vụ ”, hoặc đơn giản hơn “ thị trường là tổng hợp các số cộng của người mua về một sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ ”.
Hiểu một cách tổng quát, thị trường là nơi mà người mua và người bán tự tìm đến với nhau qua trao đổi, thăm dò, tiếp xúc để nhận lời giải đáp mà mỗi bên cần biết
Còn hiểu theo góc độ Marketing, thuật ngữ thị trường được dùng để ám chỉ một nhóm khách hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định. Bởi mặc dù tham gia thị trường phải có cả người bán và người mua nhưng những người làm Marketing lại coi người bán hợp thành ngành sản xuất cung ứng, còn người mua mới hợp thành thị trường.
Thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Như vậy, theo quan niệm này quy mô thị trường sẽ tuỳ thuộc số lượng người có nhu cầu, mong muốn và có khả năng thanh toán, khả năng thanh toán là khả năng chi trả cho những hàng hoá dịch vụ đó. Quy mô thị trường không phụ thuộc vào số người đã mua hàng và cũng không phụ thuộc vào số người có nhu cầu và mong muốn khác nhau.
Tuy nhiên, dù thị trường dược hiểu theo cách nào thì mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp vẫn là tói đa được lợi nhuận của mình. Tuy nhiên đối với nhà xản xuất giá trị của hàng hoá chỉ được biểu hiện thông qua thị trường nên các doanh nghiệp đều thông qua thị trường mà tìm cách giải quyết các vấn đề :
Phải phân loại hàng gì? Cho ai?
- Số lượng bao nhiêu ?
- Mẫu mã, kiểu cách, chất lượng như thế nào?
Và cũng qua đó người tiêu dùng biết được :
- Ai sẽ đáp ứng được nhu cầu của mình?
- Nhu cầu được thoả mãn đến mức độ nào?
- Khả năng thanh toán ra sao?
Tất cả các vấn đề trên chỉ có thể tìm trả lời chính xác trên thị trường. Sự nhận thức phiến diện về thị trường cũng như sự điều tiết thị trường theo ý muốn chủ quan duy ý chí trong quản lý và chỉ đạo kinh tế đều đồng nghĩa với việc đi ngược lại các hệ thống quy luật kinh tế vốn có trong thị trường và hậu quả sẽ ảnh hưởng xấu đến thị trường.
2. Quy luật của thị trường
Trên thị trường có rất nhiều quy luật kinh tế hoạt động đan xen lẫn nhau, và có quan hệ mật thiết với nhau, sau đây là một số quy luật cơ bản:
2.1. Quy luật giá trị :
Yêu cầu của quy luật này là sản xuất và trao đổi hang hoá được tiến hành phù hợp với hao phí lao động cần thiết tạo ra hàng hoá. Quy luật giá trị được thể hiện như quy luật giá cả và giá cả thì luôn biến động xoay quanh giá trị.
Do quy luật giá trị (biểu hiện thông qua giá cả, làm cho người bán hàng hoá mở rộng hoặc thu hẹp bớt quy mô sản xuất loại hàng hoá mà giá cả thấp hơn giá trị để dồn vào sản xuất loại hàng hoá nào có giá cả cao hơn giá trị).
2.2. Quy luật cung cầu giá cả:
Quy luật cung cầu nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn luôn có xu thế chuyển động xích lại với nhau tạo thế cân bằng trên thị trường.
Cầu là một đại lượng tỷ lệ nghịch với giá, cung là một đại lượng tỷ lệ thuận với giá. Khi cầu lớn hơn cung thì giá cả cao hơn giá trị và ngược lại.
Cung hàng hoá là số lượng hàng hoá mà người sản xuất muốn và có khả năng sản xuất để bán theo mức giá nhất định. Như vậy cung hàng hoá thể hiện mối quan hệ trực tiếp trên thị trường của hai biến số: Lượng hàng hoá dịch vụ cung ứng và giá cả của hàng hoá trong một thời gian nhất định. Quy luật về cung: Sẽ có nhiều người tham gia sản xuất nếu giá tăng và ít hơn nếu giá giảm.
Cầu hàng hoá là số lượng hàng hoá mà người mua muốn và có khả năng mua theo mức giá nhất định. Giá thị trường của hàng hoá cần mua càng tăng thì cần phải từ chối nhiều hơn các sản phẩm khác và ngược lại giá cả càng cao thì chi phí cơ hội càng cao và chi phí cơ hội quyết định khả năng người ta có thể mua được những gì?
Quy luật về cung cho ta biết ở một mặt bằng giá nhất định có bao nhiêu sản phẩm sẽ được người sản xuất đưa bán trên thị trường, quy luật về cầu lại cho biết với giá như vậy thì có bao nhiêu sản phẩm sẽ được người tiêu dùng chấp nhận mua.
2.3. Quy luật cạnh tranh:
Các nhà snả xuất tham gia cạnh tranh phải dùng mọi biện pháp để độc chiếm hoặc chiếm được một thị phần lớn về sản phẩm cạnh tranh, nhờ đó thu lợi nhuận kinh tế cao nhất trong phạm vi cho phép.
Các phương pháp cơ bản để cạnh tranh là:
+ Thu nhỏ chi phí lao động cá biệt của doanh nghiệp dưới mức chi phí lao động xã hội trung bình.
+ Sử dụng tích cực các yếu tố về thị hiếu, tâm lý khách hàng để sớm đưa ra các sản phẩm mà người tiêu dùng chấp nhận.
+ Sử dụng sức ép phi kinh tế để độc chiếm hoặc chiếm ưu thế trên thị trường.
2.4. Quy luật lưu thông tiền tệ :
Quy luật này chỉ ra rằng số lượng (hay khối lượng ) tiền lưu thông phải phù hợp với tổng giá trị hàng hoá lưu thông trên thị trường. Số lượng tiền cho lưu thông được tính bằng thương giữa tổng giá trị hàng hoá lưu thông với tốc độ vòng quay của tiền.
Tiền tệ là phương tiện để trao đổi (lưu thông), là thứ dầu mỡ bôi trơn cho bánh xe thị trường. Nếu vi phạm quy luật này sẽ dẫn tới ách tắc trong lưu thông hoặc lạm phát, gây khó khăn, dẫn đến mất ổn định nền kinh tế.
Ngoài ra thị trường còn có các quy luật khác như quy luật kinh tế, quy luật giá trị thặng dư…
3. Vai trò của thị trường
3.1. Thị trường là yếu tố quyết định sự sống còn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của các nhà sản xuất là sản xuất ra hàng hoá ra để bán, để thoả mãn nhu cầu của người khác. Vì thế các doanh nghiệp không thể tồn tại một cách đơn độc mà mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải gắn với thị trường. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra không ngừng theo chu kỳ mua nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị… trên thị trường đầu vào và tiến hành sản xuất ra sản phẩm, sau đó bán chúng trên thị trường đầu ra.
Doanh nghiệp chịu sự chi phối của thị trường hay nói cách khác thị trường đã tác động và có ảnh hưởng quyết định tới mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường càng mở rộng và phát triển thì lượng hàng hoá tiêu thụ được càng nhiều và khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Bởi thế còn thị trường tức là nha cầu thì còn sản xuất kinh doanh, mất thị trường, ngườitiêu dùng không còn nhu cầu hoặc mất lòng tin của khách hàng thì sản xuất kinh doanh bị đình trệ và các doanh nghiệp sẽ có nguy cơ bị phá sản. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, có thể khẳng định rằng thị trường có vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
3.2. Thị trường điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá :
Thị trường đóng vải trò định hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Các nhà sản xuất kinh doanh căn cứ vào cung cầu, giá cả trên thị trường để quyết định sản xuất kinh doanh cái gì? Như thế nào? và cho ai? Sản xuất kinh doanh đều phải xuất phát từ nhu cầu của khách hàng và tìm mọi cách thoả mãn nhu cầu đó chứ không phải xuất phát từ ý kiến chủ quan của nhà sản xuất. Bởi vì ngày nay nền sản xuất đã phát triển đạt tới trình độ cao, hàng hoá và dịch vụ được cung ứng ngày càng nhiều và tiêu thụ trở nên khó khăn hơn trước, cuộc chiến cạnh tranh cũng vô cùng khốc liệt. Do đó khách hàng với nhu cầu có khả năng thanh toán là nhân tố quyết định đến quy mô của doanh nghiệp.
Thị trường tồn tại một cách khách quan nên từng doang nghiệp chỉ có thể tìm phương hướng hoạt động thích ứng với thị trường. Mỗi doanh nghiệp phải trên cơ sở nhận biết nhu cầu của thị trường kết hợp với khả năng của mình để đề ra chiến lược, kế hoạch và phương án kinh doanh hợp lý nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường và xã hội.
3.3. Thị trường phản ánh thế và lực của doanh nghiệp :
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trên thương trường đều có một vị thế cạnh tranh nhất định. Thị phần (phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh được) phản ánh thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường đó.
Thị trường mà doanh nghiệp chinh phục được càng lớn chứng tỏ vị thế và uy tín của doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiẹp sản xuất ra đã làm hài lòng được khách hàng.
Thị trường rộng giúp cho việc tiêu thụ thuận lợi hơn dẫn tới doanh thu và lợi nhuận cao hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái đầu tư hiện đại hoá sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, tăng thêm khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. Khi đó thế và lực của doanh nghiệp cũng được củng cố và phát triển.
4. Chức năng của thị trường.
4.1. Chức năng thực hiện:
Hoạt động mua bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm cả thị trường. Thực hiện hoạt động này là cơ sở quan trọng có tính chất quyết định đối với việc thực hiện các quan hệ và hoạt động khác.
Thị trường thực hiện: hành vi trao đổi hàng hoá, mua bán hàng hoá, thực hiện tổng số cung và cầu trên thị trường, thực hiện cân bằng cung cầu từng thứ hàng hoá, thực hiện giá trị (thông qua giá cả), thực hiện việc trao đổi giá trị …Thông qua chức năng của mình. Giá trị trao đổi là cơ sở vô cùng quan trọng để hình thành nên cơ cấu sản phẩm, các quan hệ tỷ lệ về kinh tế trên thị trường.
4.2. Chức năng thừa nhận:
Nhà sản xuất sản xuất ra hàng hoá là để bán. Việc bán hàng được thực hiện thông qua chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận chính là người mua chấp nhận thì cũng có nghĩa là về cơ bản quá trình tái sản xuất xã hội của hàng hoá đã hoàn thành. Bởi vì bản thân việc tiêu dùng sản phẩm và các chi phí tiêu dùng cũng đã khẳng định trên thị trường khi hàng hoá được bán.
Thị trường thừa nhận: Tổng khối lượng hàng hoá (tổng giá trị sử dụng) đưa ra thị trường, cơ cấu của cung và cầu, quan hệ cung cầu với từng hàng hoá, thừa nhận giá thị sử dụng và giá cả hàng hoá, chuyển giá trị sử dụng và giá trị cá biệt thành giá trị sử dụng và giá trị xã hội, thừa nhận các hoạt động mua và bán .v.v… Thị trường không phải chỉ thừa nhận thụ động các kết quả của quá trình tái sản xuất, mà các hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá đều phải tuân theo các quy luật kinh tế của thị trường.
4.3. Chức năng điều tiết, kích thích:
Nhu cầu thị trường là mục đích của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Thị trường là tập hợp các hoạt động của các quy luật kinh tế. Do đó thị trường vừa là mục tiêu vừa tạo động lực để thực hiện các mục tiêu đó. Đó là cơ sở quan trọng để chức năng điều tiết và kích thích của thị trường phát huy vai trò của mình.
Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường thể hiện ở chỗ:
+ Thông qua nhu cầu thị trường, người sản xuất chủ động di chuyển tư liệu sản xuất, vốn và lao động từ ngành này qua ngành khác từ sản phẩm này sang sản phẩm khác một cách linh hoạt để có lợi nhuận cao.
+ Thông qua các hoạt động của các quy luật kinh tế của thị trường, người sản xuất có lợi thế trong cạnh tranh sẽ tận dụng khả năng của mình để phát triển sản xuất ngược lại những người sản xuất chưa tạo ra được lợi thế trên thị trường cũng phải vươn lên để thoát khỏi nguy cơ phá sản và thu được lợi nhuận. Đó là những động lực mà thị trường tạo ra đối với sản xuất.
+ Thông qua sự hoạt dộng của các quy luật kinh tế trên thị trường người tiêu dùng buộc phải cân nhắc, tính toán quá trình tiêu dùng của mình sao cho với cùng một mức thu nhập hạn chế của minh sẽ mua được những hàng hoá mang lại ích lợi lớn nhất. Do đó thị trường có vai trò to lớn đối với việc hướng dẫn tiêu dùng.
+ Trong quá trình tái sản xuất, không phải người sản xuất chỉ ra cách chi phí để ản xuất ra sản phẩm như thế nào cũng được xã hội thừa nhận. Thị trường chỉ thừa nhận ở mức thấp hơn hoặc bằng mức xã hội cần thiết (trung bình). Do đó thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với kích thích tiết kiệm chi phí, tiết kiệm lao động.
4.4. Chức năng thông tin:
Trong tất cả các khâu ( các giai đoạn ) của quá trình tái sản xuất hàng hoá, chỉ có thị trường mới có chức năng thông tin. Đó là thị trường là nơi cung cấp thông tin mọtt cách đầy đủ kịp thời và chính xác nhất cho cả người sản xuất và người tiêu dùng.
Thị trường cung cấp thông tin về: Tổng số cung và tổng số cầu, cơ cấu của cung và cầu, quan hệ cung cầu đối với từng loại hàng hoá, giá cả thị trường, các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường, đến mua và bán, chất lượng sản phẩm, hướng vận động của hàng hoá, các điều kiện dịch vụ cho mua và bán hàng hoá, các quan hệ tỷ lệ về sản phẩm .v.v…
Thông tin thị trường có vai trò quan trọng đối với quản lý kinh tế. Trong quản lý kinh tế, một trong những nội dung quan trọng nhất là ra quyết định. Ra quyết định cần có thông tin.Các dữ liệu thông tin quan trọng nhất là thông tin từ thị trường. Bởi vì các dữ kiện đó khách quan, được xã hội thừa nhận.
Bốn chức năng của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi hiện tượng kinh tế diễn ra trên thị trường đều thể hiện bốn chức năng này. Vì mỗi chức năng đều thể hiện một vai trò riêng củamình và nó bắt nguồn từ bản chất của thị trường, do đó không nên đặt vấn đề chức năng nào quan trọng nhất hoặc chức năng nào quan trọng hơn chức năng nào. Song cũng cần thấy rằng chỉ khi chức năng thừa nhận được thực hiện thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng.
Một trong những bí quyết quan trọng nhất để thành công trong kinh doanh là phải hiểu biết cặn kẽ tính chất của thị trường và vận dụng nó để lên các kế hoạch, định hướng phát triển đúng đắn và hài hoà với thị trường. Nhận biết được đặc điểm và sự hoạt động của từng loại thị trường, các yếu tố tham gia vào hoạt động của thị trường, từ đó thấy rõ đặc điểm hình thành và vận động của giá cả thị trường do đó cần phải nghiên cứu, phân loại các hình thái thị trường
5. Phân loại và phân đoạn thị trường.
5.1. Phân loại thị trường:
Một trong những yếu tố quan trọng để thành công trong kinh doanh là sự hiểu biết cặn kẽ tính chất của từng hình thái thị trường. Phân định các hình thái thị trường là chia thị trường theo các góc độ khách quan khác nhau. Phân định hình thái thị trường là vô cùng cần thiết, khách quan để nhận thức một cách cặn kẽ về thị trường.
Hiện nay trong hoạt động kinh doanh người ta dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để phân định các hình thái thị trường. Mỗi cách phân định có một hình thái thị trường riêng đối với quá trình kinh doanh. Sau đây là một số cách phân định chủ yếu về nội dung, tính chất của từng hình thái thị trường tương ứng với các phân định đó.
5.1.1 Căn cứ vào quan hệ mua bán giữa các quốc gia, thị trường chia
thành thị trường quốc nội và thị trường quốc tế:
Thị trường trong nước là thị trường mà ở đó diễn ra hoạt động mua bán hàng hoá của những người trong phạm vi hoạt động một quốc gia và chỉ có liên quan đến các vấn đề kinh tế, chính trị trong một nước.
Thị trường qu