Mục tiêu mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều mong muốn vươn tới đó là sự tăng trưởng, phát triển và thịnh vượng. Song để đạt được điều này, đòi hỏi mỗi quốc gia phải tự xây dựng cho mình các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội sao cho vừa phát huy nội lực, vừa khắc phục được khó khăn và yếu kém vừa tránh được sự tụt hậu đối với xu thế chung của toàn thế giới .
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa, lại nằm trong khu vực Châu á Thái Bình Dương- khu vực kinh tế năng động và phát triển nhất thế giới, nhưng lại vấp phải nhiều khó khăn thử thách: đất nước vừa trải qua cuộc chiến tranh kéo dài gần một thế kỷ, cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề, nền công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, đội ngũ cán bộ khoa học còn nhiều bất cập về số lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp chưa đáp ứng mức cần thiết nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội .
Để khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thì một trong những tiền đề nhằm phát triển nền kinh tế là vốn bởi sẽ là không tưởng khi nói đến cải tạo, đổi mới và phát triển nền kinh tế mà không có vốn hay không đủ vốn.
Thực tế, chúng ta phải khẳng định rằng nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, tuy nhiên để tìm được nguồn vốn thật không phải dễ. Câu hỏi đặt ra là: vốn được khơi nguồn từ đâu?
Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VII của Đảng đã nêu: “Để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì cần huy động được nguồn vốn sẵn có và sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng”.
Nguồn nội lực rất dồi dào, phong phú nhưng lại có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi thông, thu hút và phát huy nguồn nội lực ?, nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế –xã hội .
Trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp, dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM) - là kênh truyền dẫn vốn quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong môi trường kinh doanh tiền tệ, NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, quan trọng nhất.
NHTM là một trung gian tài chính với nghiệp vụ truyền thống “đi vay để cho vay” vì thế nguồn vốn do ngân hàng thương mại cung cấp không chỉ lớn về số lượng mà còn có tính ổn định, chi phí thấp. Như vậy, hoạt động huy động vốn đóng một vai trò quan trọng không chỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại mà còn góp phần không nhỏ tạo ra vốn cung cấp cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển .
Cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và sự phát triển kinh tế đất nước, sau một thời gian thực tập, nghiên cứu tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tây Hồ, em xin chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn”.
Đề tài tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động huy động vốn góp phần nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ .
Với lượng thời gian thực tập và kiến thức chuyên môn còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa được tích luỹ nhiều, nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết của em tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả huy động vốn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hồ.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo & PTNT Tây Hồ.
73 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Mục tiêu mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều mong muốn vươn tới đó là sự tăng trưởng, phát triển và thịnh vượng. Song để đạt được điều này, đòi hỏi mỗi quốc gia phải tự xây dựng cho mình các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội sao cho vừa phát huy nội lực, vừa khắc phục được khó khăn và yếu kém vừa tránh được sự tụt hậu đối với xu thế chung của toàn thế giới .
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa, lại nằm trong khu vực Châu á Thái Bình Dương- khu vực kinh tế năng động và phát triển nhất thế giới, nhưng lại vấp phải nhiều khó khăn thử thách: đất nước vừa trải qua cuộc chiến tranh kéo dài gần một thế kỷ, cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề, nền công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, đội ngũ cán bộ khoa học còn nhiều bất cập về số lượng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp chưa đáp ứng mức cần thiết nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội .
Để khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước thì một trong những tiền đề nhằm phát triển nền kinh tế là vốn bởi sẽ là không tưởng khi nói đến cải tạo, đổi mới và phát triển nền kinh tế mà không có vốn hay không đủ vốn.
Thực tế, chúng ta phải khẳng định rằng nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, tuy nhiên để tìm được nguồn vốn thật không phải dễ. Câu hỏi đặt ra là: vốn được khơi nguồn từ đâu?
Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VII của Đảng đã nêu: “Để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì cần huy động được nguồn vốn sẵn có và sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng”.
Nguồn nội lực rất dồi dào, phong phú nhưng lại có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi thông, thu hút và phát huy nguồn nội lực ?, nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế –xã hội .
Trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp, dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM) - là kênh truyền dẫn vốn quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong môi trường kinh doanh tiền tệ, NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, quan trọng nhất.
NHTM là một trung gian tài chính với nghiệp vụ truyền thống “đi vay để cho vay” vì thế nguồn vốn do ngân hàng thương mại cung cấp không chỉ lớn về số lượng mà còn có tính ổn định, chi phí thấp. Như vậy, hoạt động huy động vốn đóng một vai trò quan trọng không chỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại mà còn góp phần không nhỏ tạo ra vốn cung cấp cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển .
Cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và sự phát triển kinh tế đất nước, sau một thời gian thực tập, nghiên cứu tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tây Hồ, em xin chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn”.
Đề tài tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động huy động vốn góp phần nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ .
Với lượng thời gian thực tập và kiến thức chuyên môn còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa được tích luỹ nhiều, nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết của em tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả huy động vốn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hồ.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo & PTNT Tây Hồ.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1.1. Khái quát về NHTM.
Ngân hàng được coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Ngân hàng không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Mỗi nước khác nhau với chế độ xã hội và hệ thống pháp luật khác nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau. Thông thường, để định nghĩa ngân hàng, người ta phải dựa vào tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động của nó trên thị trường tài chính.
Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Luật ngân hàng của Ấn Độ, năm 1950: “ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.
Luật ngân hàng của Đan Mạch, năm 1930 :“ Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân...”.
Việt Nam, bước chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Theo hướng này, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra tiền đề cần thiết đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990 định nghĩa: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Qua những khái niệm nêu trên, ta có thể rút ra được một số điểm đặc trưng của ngân hàng thương mại như sau :
NHTM là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả .
NHTM là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác .
(Lý thuyết tiền tệ ngân hàng – PTS .Nguyễn Ngọc Hùng )
1.1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1.2.1. NHTM là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi .
Lịch sử của NHTM là lịch sử kinh doanh tiền gửi, nhận tiền gửi và kinh doanh tiền gửi là đặt trưng quan trọng để phân biệt NHTM với các TCTD khác. NHTM tổ chức nhận tiền gửi dưới nhiều hình thức khác nhau: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu…. NHTM không được phép đóng cửa không nhận tiền gửi của khách hàng. Tỷ trọng nhận và kinh doanh tiền gửi chiếm rất lớn trong bảng cân đối tài sản của ngân hàng ( 70 - 80%), thu nhập chủ yếu được tạo ra từ hoạt động kinh doanh tiền gửi và chi phí cho hoạt động nhận tiền gửi chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi phí (60-70%), đối với ngân hàng truyền thống .
Bản chất của hoạt động kinh doanh ngân hàng là “đi vay để cho vay”, vốn kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là tiền gửi huy động được. NHTM là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi .
1.1.2.2. Hoạt động của ngân hàng gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hoạt động thanh toán của mỗi quốc gia.
Lịch sử phát triển đã phân chia hệ thống ngân hàng thành: Ngân hàng với các chức năng ở tầm vĩ mô, quản lý điều tiết thị trường tài chính, là ngân hàng của các ngân hàng, có chức năng phát hành tiền. Đó chính là NHTƯ. Ngân hàng với chức năng, vai trò nhận và kinh doanh tiền gửi vì mục tiêu lợi nhuận… đó là các NHTM và các tổ chức tín dụng khác .
NHTƯ muốn thực hiện hoạt động quản lý, điều tiết thị trường tài chính thì phải thông qua các công cụ tài chính (lãi suất, mức cung tiền, hạn mức tín dụng,…) tác động vào hoạt động của hệ thống NHTM, do vậy, NHTM là kênh truyền dẫn để NHTƯ thực thi chức năng, vai trò của mình .
Như ta đã nói ở trên, bản chất hoạt động của NHTM là “đi vay để cho vay”, NHTM là một trung gian tài chính và trong khi thực hiện vai trò trung gian luân chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn, NHTM đã tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền mặt làm phương tiện thanh toán: séc, hệ thống tài khoản tiền gửi, chứng từ, thẻ … do đó, phần lớn tiền giao dịch trong quan hệ kinh tế là tiền qua ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng gắn liền với hệ thống lưu thông tiền tệ.
Hoạt động thanh toán luôn gắn với quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà nó còn mang tính toàn cầu. Thanh toán qua ngân hàng tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn, hàng hoá, làm tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng hiệu quả kinh doanh. Hoạt động của NHTM gắn liền với hoạt động thanh toán quốc gia và thanh toán quốc tế.
1.1.2.3. Hoạt động của NHTM đa dạng phong phú và có phạm vi rộng lớn .
Thông qua các hình thức huy động vốn, NHTM tập trung, tích luỹ các nguồn vốn trong xã hội tạo thành quỹ tài chính và thông qua hoạt động tín dụng, đầu tư,… ngân hàng tiến hành cung ứng và phân bổ vốn cho nền kinh tế. Do vậy, hoạt động của NHTM liên quan đến mọi lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh ( công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thương mại…), rất nhiều cá nhân, tổ chức, thành phần kinh tế trong xã hội. Phạm vi hoạt động của NHTM không chỉ giới hạn trong nước mà còn mang tính quốc tế. Và để thoả mãn được mọi nhu cầu của khách hàng thì hình thức hoạt động của ngân hàng rất đa dạng, sản phẩm dịch vụ phong phú, mạng lưới chi nhánh rộng khắp .
Trong môi trường kinh tế đầy sự biến động và cạnh tranh gay gắt, khốc liệt thì sự phong phú đa dạng trong hình thức hoạt động, sản phẩm, dịch vụ cung ứng sẽ là điều kiện quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, làm tăng khả năng cạnh tranh, củng cố uy tín vị thế của ngân hàng trên thị trường.
1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, thông qua các nghiệp vụ hoạt động của mình nhằm điều hoà, phân phối lại nguồn vốn, cung cấp vốn cho hoạt động của cả nền kinh tế. Với trình độ phát triển của khoa học hiện đại hiện nay, hoạt động của ngân hàng đã ngày càng trở nên phong phú hơn song ngân hàng vẫn luôn duy trì một số nghiệp vụ cơ bản sau:
1.1.3.1. Nghiệp vụ tài sản Có.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo sự an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM.
a. Nghiệp vụ ngân quỹ.
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào với mục đích nhằm bảo đảm an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do NHTƯ đề ra .
b. Nghiệp vụ cho vay.
Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư sinh lời của ngân hàng thông qua hoạt động cho vay ngắn hạn, trung- dài hạn đối với nền kinh tế.
c. Nghiệp vụ đầu tư tài chính.
Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các hoạt động góp vốn, hùn vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường.
d. Nghiệp vụ khác.
Bằng các hoạt động khác trên thị trường như: kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; kinh doanh và các dịch bảo hiểm; dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật .
1.1.3.2. Nghiệp vụ tài sản Nợ và vốn tự có của ngân hàng .
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, gồm các nghiệp vụ sau:
Nghiệp vụ tiền gửi .
Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó ngân hàng có thể huy động và được sử dụng vào kinh doanh. Ngoài ra, ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá.
Các NHTM sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có thời hạn dài, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Nghiệp vụ đi vay.
Đối với nghiệp vụ này, NHTM tiến hành tạo vốn cho mình bằng việc vay các TCTD khác trên thị trường tiền tệ và vay NHTƯ dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
Nghiệp vụ huy động vốn khác.
Các NHTM còn có thể tiến hành tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, thông qua việc sử dụng các phương tiện trong thanh toán, đòi hỏi khách hàng phải ký gửi một bộ phận tiền vào ngân hàng và trên cơ sở đó các NH có thể sử dụng những vốn nhàn rỗi trên tài khoản đưa vào hoạt động kinh doanh. Để mở rộng nghiệp vụ này các NHTM cần chú trọng đến phát triển các dịch vụ và không ngừng nâng cao uy tín của mình trên thị trường .
Nghiệp vụ vốn tự có.
Đây là vốn thuộc sở hữu riêng có của các ngân hàng. Trong thực tế khoản vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn này đóng góp một phần đáng kể vào vốn trong hoạt kinh doanh của các NHTM, đồng thời góp phần nâng cao vị thế, uy tín của NHTM trên thị trường .
1.1.3.3. Nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết tài sản.
Tuy việc quản lý tài sản có và tài sản nợ là mối quan tâm thường xuyên và chủ yếu của NHTM nhưng trong môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay thì thực hiện các nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết tài sản cũng là cách để tạo ra lợi nhuận. Những nghiệp vụ ngoài bảng tổng kết như: Môi giới mua bán những công cụ tài chính, chuyển nhượng hoặc bán những món vay và từ đó ngân hàng thu một mức phí nhất định, tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ: kinh doanh hối đoái nhân danh khách hàng, hỗ trợ vay thế chấp, bảo đảm các chứng khoán vay nợ, cung cấp mức tín dụng hỗ trợ ( thư tín dụng,..), thực chất đây là hình thức các ngân hàng đứng ra đảm bảo cho khách hàng nhằm giúp khách hàng nâng cao uy tín trong việc thực hiện các nghiệp vụ trên, và ngân hàng thu phí .
Hạn chế lớn nhất của các nghiệp vụ này là đặt ngân hàng trước những rủi ro lớn nếu hoạt động kinh doanh của những khách hàng mà ngân hàng bảo lãnh gặp phải rủi ro dẫn đến phá sản hoặc không có khả năng thanh toán. Đây là hình thức làm cho nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng đa dạng hơn, lợi nhuận thu được lớn hơn nhưng nó đòi hỏi ngân hàng cần có sự phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi thực hiện các nghiệp vụ trên nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
1.1.4. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
NHTM là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế với cơ sở là nền sản xuất, lưu thông hàng hoá, nền kinh tế ngày càng phát triển thì hoạt động của các NHTM càng phát triển phong phú, đa dạng hiện đại và có vai trò quan trọng. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình đặc biệt là chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.4.1. Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. Như vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và có mức chi tiêu hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô về cả chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tuy nhiên, để đẩy mạnh sự tăng trưởng và phát triển của các ngành trong nền kinh tế thì vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng. Mặt khác, khi nền kinh tế càng phát triển sẽ tạo ra càng nhiều nguồn vốn. Trong điều kiện như vậy, NHTM với vai trò của một trung gian tín dụng, luân chuyển và phân phối vốn một cách hợp lý trong nền kinh tế đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi cá nhân, tổ chức, thành phần kinh tế tạo thành quỹ tài chính và thông qua nghiệp vụ tín dụng, NHTM cung ứng vốn cho nền kinh tế, đáp ứng kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Chính nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có điều kiện cải thiện hoạt động kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là ngân hàng thương mại.
1.1.4.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường .
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong quá trình vận động chịu tác động của rất nhiều các quy luật kinh tế khách quan: quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả…. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thì không thể thoát khỏi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan đó. Họ không những phải đáp ứng nhu cầu thị trường về phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã sản phẩm… mà còn phải thoả mãn trên phương diện thời gian, địa điểm. Do vậy, nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, cải tiến máy móc trang thiết bị, tìm tòi sử dụng các nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp chính là nhân tố quan trọng giúp cho doanh nghiệp đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh, nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng. Tuy nhiên những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng vốn lớn (thông thường vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp). Để giải quyết khó khăn này, các doanh nghiệp tìm đến ngân hàng xin vay vốn. Đến đây ta thấy, hoạt động tín dụng của ngân hàng có vai trò quan trọng, là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, củng cố vị trí, tăng khả năng cạnh tranh, tạo chỗ đứng vững chắc và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
1.1.4.3. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng, thanh toán và nghiệp vụ “tạo tiền” giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông, hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dắt dẫn các luồng tiền, tập hợp, phân chia các nguồn vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, giúp nhà nước thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.4.4. NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
Xu thế chung hiện nay là toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập và phát triển. Sự phát triển của các quốc gia không thể tách rời, độc lập riêng biệt mà luôn cần phải có sự giao lưu, hợp tác, tương trợ lẫn nhau. Xu thế này đã khiến các quốc gia tuy cách xa nhau về mặt địa lý nhưng vẫn xích lại gần nhau trong quan hệ hợp tác. Đó là xu thế của nền kinh tế thị trường, của sự phát triển chung và của nền sản xuất hàng hoá, khi mà các mối giao lưu quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng phát triển mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội giữa các nước trên thế giới lại ngày càng trở nên cấp thiết, bởi sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận không thể thiếu, cấu thành nên sự phát triển đó. NHTM với các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác nó đã góp phần thúc đẩy ngoại thương mở rộng. Cũng thông qua các hoạt động thanh toán, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng, đại lý… với ngân hàng nước ngoài, hệ thống ngân hàng đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nề