Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, thời gian qua nông nghiệp và nông thôn nước ta nói chung, Hà Nam nói riêng đã có những chuyển biến lớn và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tốc độ tăng trưởng bình quân của nông nghiệp tỉnh Hà Nam đạt 5%/năm. Từ một tỉnh thiếu lương thực đến nay đã có đủ lương thực tiêu dùng và có dự trữ đảm bảo an ninh lương thực và có sản phẩm hàng hoá.
66 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1572 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, thời gian qua nông nghiệp và nông thôn nước ta nói chung, Hà Nam nói riêng đã có những chuyển biến lớn và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tốc độ tăng trưởng bình quân của nông nghiệp tỉnh Hà Nam đạt 5%/năm. Từ một tỉnh thiếu lương thực đến nay đã có đủ lương thực tiêu dùng và có dự trữ đảm bảo an ninh lương thực và có sản phẩm hàng hoá.
Cùng với những thành tựu đạt được trong sản xuất nông nghiệp, thị trường tiêu thụ nông sản đã bước đầu mở rộng và phát triển, tác động tích cực trở lại sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Một số nông sản làm ra tiêu thụ chậm, giá cả không ổn định làm thiệt hại đến lợi ích của người sản xuất và không khuyến khích người lao động. Vì vậy em chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010" và mong muốn góp phần tìm hiểu thị trường hàng hoá nông sản, định hướng sản xuất, phát triển thị trường cho những năm tới và đề xuất một số giải pháp để nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Đề tài được chia làm ba chương sau:
Chương I: Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Chương II: Tình hình sản xuất, tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn 1996 - 2002.
Chương III: Các giải pháp nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đến năm 2010.
Chương I
Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam đến năm 2010.
I. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản.
1. Quan niệm về tiêu thụ hàng hoá nông sản.
Nếu xét hoạt động tiêu thụ như một hành vi thì hoạt động tiêu thụ nông sản là sự chuuyển giao hình thái giá trị của sản phẩm hàng hoá từ hàng sang tiền ( H -T) nhằm thoả mãn nhu cầu khách hàng về một giá trị sử dụng nhất định. Không có mua thì không có bán, song xét về mặt giá trị, xét bản thân chúng H -T và T-H thì là sự chuyển hoá của một giá trị nhất định , từ một hình thái này sang hình thái khác , nhưng H -T lại là sự thựchiện giá trị thặng dư chứa đựng trong H. Như vậy , nếu hiểu theo quan niệm này thì tiêu thụ sản phẩm là sự chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm cho người mua và người bán thu đượctiền từ bán sản phẩm hay quyền thu từ người mua.
Nếu xét hoạt động tiêu thụ như môt khâu của quá trình sản xuất kinh doanh thì tiêu thụ hàng hoá là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất và kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích là tiêu thụ của sản xuất và tiêu dùng, đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất, phân phối và một bên là tiêu dùng.
Nếu xét hoạt động tiêu thụ là một quá trình thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm là một quá trình bao gồm từ việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, biến nhu cầu đó thành nhu cầu mua thực sự của người tiêu dùng, tổ chức sản xuất, chuẩn bị sản phẩm, tổ chức bán và các hoạt động dịch vụ khách hàng sau khi bán.
Theo hiệp hội kế toán quốc tế, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ, lao vụ đã thực hiện cho khách hàng là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng, đồng thời thu được tiền hàng hoá.
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức, kinh tế và kế hoạch nhằm thực hiện việc nghiên cứu thị trường, tổ chức tiếp nhận sản phẩm hàng hoá và xuất bán theo nhu cầu của khách hàng với chi phí thấp nhất.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là khâu quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Có tiêu thụ được sản phẩm mới tăng được vòng quay của vốn, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua tiêu thụ sản phẩm thực hiện được giá trị sử dụng của sản phẩm. Sau khi tiêu thụ được sản phẩm doanh nghiệp không những thu được các khoản chi phi bỏ ra mà còn thu được lợi nhuận.
Các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam như : gạo, đậu tương, lạc, hạt điều, cà phê, chè, thịt, rau quả tươi và rau quả chế biến... được sản xuất và tiêu thụ ở Việt Nam với các mức độ khác nhau đã tác động đến sản xuất và tiêu thụ trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
2. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng tiêu thụ.
Hà Nam là tỉnh nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, đất đai mầu mỡ được bao bọc bởi hai con sông lớn là sông Hồng và sông Đáy, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp là nền sản xuất chính của tỉnh, chiếm tới hơn 45,6% trong cơ cấu GDP của tỉnh.
Mấy năm vừa qua nhờ chuyển đổi cơ chế quản lý, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thay đổi giống và biện pháp thâm canh tăng vụ, nông nghiệp Hà Nam đã có những tiến bộ rõ rệt. Tổng sản lượng lương thực năm 2002 đạt 424.000 tấn, bình quân 450kg/ người/năm. Chăn nuôi gia súc gia cầm, thuỷ sản phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện.
Trong những năm qua, cùng với mức tăng trưởng kinh tế cao, tỷ lệ hộ đói nghèo của Hà Nam đã giảm từ 15,4% năm 2000 còn dưới 10% vào năm 2002. Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người của Hà Nam là 256.800 đồng/người/tháng, chỉ bằng 87,05% so với mức thu nhập bình quân đầu người của cả nước và bằng 91,6% của cùng đồng bằng sông Hồng.
Hà Nam đang phấn đấu: "Đẩy nhanh tốc độ phát triển nông thôn toàn diện theo hướng nâng cao chất lượng tăng giá trị sản xuất, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa mở rộng sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu". Dự báo đến năm 2010, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hà Nam chiếm khoảng 20 đến 26%GDP, tỷ trọng cơ cấu trong nông nghiệp thay đổi theo hướng tỷ trọng chăn nuôi tăng, sản lượng lương thực tiêu dùng còn khoảng 10000 tấn đến 150000 tấn lúa hàng hoá và nhiều loại nông sản hàng hoá khác.
Định hướng phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 của cả nước được trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là:" Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo hướng đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng. Đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tăng cường đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới.
Đối với Hà Nam tuy là một tỉnh nhỏ, dân số không lớn, nông sản hàng hoá chưa nhiều nhưng vấn đề nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản của tỉnh Hà Nam đã được đề cập trong báo cáo của ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI là :" Mở rộng thị trường, tăng nhanh hàng hoá xuất khẩu, nhất là xuất khẩu sản phẩm nông sản góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế...".
Nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản góp phần tạo công ăn việc làm tại chỗ cho nông dân, giảm khó khăn cho xã hội và hạn chế sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị vốn đã và đang dư thừa lao động, tạo điều kiện cho người dân gắn bó hơn với mảnh đất mà mình sinh sống.
Nông nghiệp giữ một vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam, thể hiện thông qua tỷ trọng GDP nông nghiệp trong tổng GDP và các nguồn lực quốc gia.
Bảng 1: GDP phân theo ngành kinh tế năm 2000.
Ngành kinh tế
GDP theo giá hiện hành
(Tỷ đồng)
Cơ cấu GDP
(%)
Tăng trưởng GDP (2001 - 2002)
(%)
Tổng số cả nước
-Nông, lâm, ngư nghiệp
- Công nghiệp
- Dịch vụ - Thương Mại
399.942
101.724
137.750
160.259
100
25,43
34,49
40,07
7,67
4,22
11,47
7,36
Nhìn toàn bộ nền kinh tế, đóng góp của lĩnh vực nông nghiệp đã giảm tương đôi so với đóng góp trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Tiềm năng phát triển nông nghiệp và nông thôn đã thu hút hơn 200 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài với hơn 2,4 tỷ USD vốn đầu tư và hơn 1,5 tỷ USD viện trợ phát triển chính thức. Thành tích của Việt Nam trong những năm qua chứng tỏ đầu tư vào sản xuất lượng thực và sản xuất nông sản để xuất khẩu là hướng đi đúng đắn, góp phần vào phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam đã xuất khẩu tới trên 80 nước trên thế giới. Một số nông sản đã được xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường truyền thống và các đối tác thương mại lớn. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hoá nông sản.
1. Điều kiện tự nhiên.
1.1. Vị trí địa lý.
Hà Nam là tỉnh đồng bằng thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng có quy mô vừa phải, diện tích tự nhiên 842,4 km2 gồm 5 huyện, 1 thị xã và 114 xã, phường mới được tái lập từ ngày 1/1/97. Hà Nam nằm cách Hà Nội 58 km, là cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội. Hà Nam có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua, có nhiều sông lớn như sông Hồng, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu tạo ra mạng lưới giao thông thuỷ bộ thuận lợi cho việc giao lưu giữa các tỉnh trong cả nước.
Hà Nam nằm ở vị trí gần trung tâm của vùng Đồng Bằng Sông Hồng,phía Bắc giáp với Hà Tây, phía Đông giáp với Hưng Yên và Thái Bình, phía Đông Nam giáp với Nam Định, phía Nam giáp với Ninh Bình và chỉ có phía Tây giáp với Hoà Bình - một tỉnh thuộc vùng Tây Bắc.
So với các tỉnh xung quanh, trừ Hoà Bình, Hà Nam đều có những nét tương đồng với các tỉnh còn lại như Hà Tây, Hưng Yên, Thái Bình về nhiều phương diện như trình độ phát triển kinh tế, điều kiện tự nhiên, đặc trưng văn hoá xã hội... Xuất phát từ những nét tương đồng đó, khả năng bổ xung lẫn nhau giữa Hà Nam với các tỉnh xung quanh trong quá trình phát triển của mình sẽ không lớn. Tuy nhiên, khả năng hợp tác giữa các tỉnh này trong sản xuất để đạt được tính kinh tế theo quy mô sẽ là hướng quan trọng cần quan tâm.
Với khoảng cách gần 60 km, mức độ ảnh hưởng tương tác giữa Hà Nội và Hà Nam mang tính trực diện, ở mức độ lớn và ảnh hưởng đó sẽ ngày càng lớn hơn cùng với sự phát triển của điều kiện giao thông, thông tin liên lạc và nhu cầu giao lưu của dân cư. Với vị trí trên trục giao lưu chủ yếu giữa Bắc và Nam của cả nước, Hà Nam có khả năng tiếp nhận được nhanh hơn so với nhiều tỉnh khác những ảnh hưởng cả theo ý nghĩa tích cực và tiêu cực từ bên ngoài trong quá trình phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội của tỉnh.
1.2. Đất đai.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 84328,5 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 47940 ha, đất lâm nghiệp chiếm 550 ha, bình quân một khẩu chỉ có 660 m2 đất nông lâm nghiệp. Đất đai của tỉnh gồm hai loại: Đất đồi và đất phù sa cổ, địa hình phức tạp, đất nông nghiệp chủ yếu là thấp, trũng, không bằng phẳng. Trong đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm 93%(chủ yếu trồng lúa, ngô, khoai, sắn), đất trồng cây lâu năm chiếm 1,4%, còn lại là đất cỏ dùng vào chăn nuôi và đất vườn liền nhà. Bình quân đất trên đầu người thấp đòi hỏi phải thâm canh, xen canh tăng vụ... để tăng sản lượng cây trồng. Nhìn chung đất đai của Hà Nam phù hợp với việc gieo trồng cây lúa và một số cây nông sản khác.
1.3. Nguồn nước.
Tài nguyên nước dồi dào là lợi thế quan trọng trong việc trồng lúa nước.Chất lượng nước của tỉnh Hà Nam được coi là tốt, không có độ xâm nhập mặn, giàu chất dinh dưỡng, thích hợp cho phát triển nông nghiệp.
Hệ thống sông ngòi chằng chịt là ưu thế lớn cho sản xuất nông nghiệp ở Hà Nam. Tuy nhiên Hà Nam lại nằm trong khu vực trũng thấp của đồng bằng sông Hồng nên dễ xảy ra úng lụt nếu hệ thống tưới tiêu không đảm bảo.
1.4. Khí hậu.
Hà Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có số giờ nắng cao từ 1170-1600 giờ/năm. Lượng mưa hàng năm từ 1300 - 2200 mm. Nhiệt độ trung bình từ 23 - 24,30C. Tháng nóng nhất là tháng 6, tháng 7( nhiệt độ trung bình lên tới 300C). Khí hậu Hà Nam thích hợp cho việc trồng lúa. Mùa đông lạnh khô có thể phát triển cây á nhiết đới như: rau, khoai tây. Có thể phát triển vụ đông tạo ra nhiều loại rau quả có giá trị.
2. Điều kiện xã hội.
2.1. Nguồn nhân lực.
Với dân số là 80 vạn người trong đó lao động là 384000 người (lao động nông nghiệp là 309000 người chiếm 80% lực lượng lao động). Hà Nam có nguồn nhân lực dồi dào, con người Hà Nam có trình độ và kỹ năng lao động tốt, gắn bó với nghề công. Đây là một lợi thế để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
Bảng 2: Dân số Hà Nam giai đoạn 1996 - 2002
Đơn vị: 1000 người
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
Thành thị
Tỷ trọng
Nông thôn
Tỷ trọng
731,4
50,4
6,89
680,5
93,11
771,6
57,6
7,47
714
92,53
779,4
60,9
7,81
718,5
92,19
786,6
62,3
7,92
724,3
92,08
792,5
62,6
7,90
729,9
92,10
809,3
63,0
7,83
734,6
92,17
815,8
64,3
7,8
751,5
92,2
Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Hà Nam.
Hà Nam là một tỉnh nông nghiệp, dân số phân bố chủ yếu ở vùng nông thôn, tỷ lệ dân số đô thị khá thấp. Trong thời kỳ 1996 -2000, đồng thời với sự giảm tốc độ tăng dân số là sự giảm đáng kể tốc độ tăng của dân số nông thôn, nhưng tốc độ tăng dân số thành thị cũng bị suy giảm. Điều đó phản ánh xu hướng di chuyển của Hà Nam ra khỏi địa bàn tỉnh đang diễn ra ở cả khu vực nông thôn và khu vực thành thị. Chính vì vậy, tỷ lệ dân số đô thị của Hà Nam vốn đã thấp lại càng thấp hơn nhiều so với tỷ lệ chung của cả nước: năm 1995 tỷ lệ dân số đô thị của Hà Nam là 7,41% và của cả nước là 16,66% ; năm 2000 là 7,83% và 20,14%.
Bảng 3: Cơ cấu lao động theo ngành nghề trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Đơn vị: người
Năm
Nông-lâm-thuỷ sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ thương mại
1996
2000
Tốc độ tăng bình quân1996-2000(%)
271.246
312.500
1,60
45.590
43.920
-0,44
28.056
32.360
1,56
Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Hà Nam.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, dân số trong độ tuổi lao động của Hà Nam đã gia tăng nhanh, từ nhịp độ tăng bình quân 1,32%/năm trong giai đoạn 1991 - 1995 lên nhịp độ tăng bình quân 1,71%/năm trong giai đoạn 1996 - 2000. Về cơ cấu lao động theo lĩnh vực kinh tế, trong giai đoạn 1996 -2000, tỷ trọng lao động trong ngành nông - lâm - thuỷ sản tăng từ 78,65% năm 1996 lên 80,4% năm 2000, tỷ trọng lao động dịch vụ từ 8,13% lên 8,30%, trong khi đoá tỷ trọng lao động ngành công nghiệp.
Cơ sở vật chất cho giáo dục phổ thông của tỉnh được phát triển khá tốt so với tình trạng chung của các tỉnh Đồng Bằng Sông Hồng, đặc biệt là đối với bậc học phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Tuy nhiên, nếu so sánh chỉ số giữa số lượng học sinh các bậc học từ phổ thông đến đại học với số dân thì các chỉ số của Hà Nam lại ở mức thấp hơn so với vùng Đồng Bằng Sông Hồng và với cả nước.
Bảng 4: Số học sinh và tỷ trọng học sinh so với dân số năm 2000.
Phổ thông
THCN
ĐH-CĐ
CNKT
Số học sinh (người)
- Cả nước
17866673
143389
421418
134271
-Đồng Bằng Sông Hồng
3787599
36918
178308
42089
-Hà Nam
178717
1139
565
1446
Tỷ trọng so với dân số(%)
-Cả nước
23,00
0,19
0,55
0,18
-Đồng Bằng Sông Hồng
22,26
0,22
1,06
0,25
-Hà Nam
22,09
0,14
0,77
0,18
Nguồn :Số liệu thống kê cả nước - Niên giám thống kê 2001.
Như vậy, chỉ số giữa số lượng học sinh các bậc học từ phổ thông đến đại học với số dân thì các chỉ số của Hà Nam ở mức thấp hơn so với vùng Đồng Bằng Sông Hồng. Về phương diện phát triển giáo dục và đào tạo, Hà Nam là tỉnh có truyền thống phát triển khá tốt và có sự vượt trội hơn so với nhiều địa phương khác trong cả nước. Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo ra lợi thế so sánh của tỉnh Hà Nam so với các tỉnh khác trong vùng Đồng Bằng Sông Hồng và cả nước đang là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho tỉnh trong giai đoạn tới.
2.2. Cơ sở hạ tầng.
Cùng với xu hướng đầu tư và phát triển nhanh về cơ sở hạ tầng của cả nước, Hà Nam đã phát triển khá tốt các điều kiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt cơ sở hạ tầng nông thôn.
Bảng 5: Các điều kiện cơ bản về cơ sở hạ tầng năm 2000.
Đơn vị:%
Cả nước
ĐB Sông Hồng
Hà Nam
1.Tỷ lệ xã có điện
2.Tỷ lệ xã có đường ô tô đến xã
3.Tỷ lẹ xã có đường ô tô đến thôn
4.Tỷ lệ xã có trường tiểu học
6. Tỷ lệ xã có trạm y tế
7.Số máy điện thoại trên 1000 dân
85,8
92,9
79,8
98,9
89,3
31,4
99,9
99,9
99,6
99,9
100
34,2
100
100
100
100
100
9,2
Nguồn: Số liệu thống kê cả nước.
Hệ thống thuỷ lợi của tỉnh tuy đã hoàn chỉnh nhưng do xây dựng đã lâu nên xuống cấp nghiêm trọng, chưa đảm bảo tưới tiêu chủ động. Hệ thống gioa thông thuỷ bộ trải khắp các xã, huyện nhưng cũng cần được nâng cấp. Các cơ sở thông tin, điện đã được xây dựng tương đối đến tất cả các xã. Các dịch vụ nông nghiệp đã đảm bảo phục vụ được nhu cầu của người nông dân. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật từng bước được áp dụng phù hợp với điều kiện của tỉnh.
Như vậy, nếu xem các điều kiện cơ bản về cơ sở hạ tầng vừa phản ánh trình độ phát triển, vừa là những yếu tố cần thiết phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội, thì Hà Nam có lợi thế hơn so với mức trung bình của cả nước và của Đồng Bằng Sông Hồng.
2.3. Kinh tế xã hội
Hà Nam là một tỉnh mới được tái lập nên điểm xuất phát kinh tế thấp hơn một số tỉnh ở đồng bằng sông Hồng, nhiều chỉ tiêu kinh tế thấp so với mức trung bình của cả nước. Cơ sở vật chất ký thuật nhỏ bé, trình độ trang thiết bị còn lạc hậu, sản phẩm làm ra kém chất lượng, sức cạnh tranh trên thị trường không cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ....Hà Nam lại nằm ở vùng trọng điểm Bắc Bộ, khu vực phát triển kinh tế với tốc đọ nhanh, tuy có điều kiện hội nhập song phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt (cả thu hút đầu tư lẫn tiêu thụ hàng hoá). Đó là những yếu tố hạn chế sự phát triển nông nghiệp trong đó có nông sản hàng hoá.
Trong giai đoạn 1996 -2002, Hà Nam đã đạt được nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm ở mức cao hơn so với mức bình quân chung của cả nước, nhưng do mức khởi đầu thấp và mức tăng trưởng quá thấp so với cả nước vào năm 1996, nên GDP bình quân đầu người của Hà Nam hiện nay vẫn thấp, chỉ bằng 50% so với GDP bình quân đầu người cả nước. Mức giảm về tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Hà Nam tuy khá nhanh nhưng cơ cấu giữa các ngành trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ thay đổi chút ít và trông trọt ( chủ yếu là cây lúa) vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Như vậy, trong giai đoạn 1996 - 2002, mặc dù cơ cấu kinh tế của Hà Nam có chuyển nhanh, nhưng không có sự cải thiện lớn về năng lực sản xuất, chưa tạo được nhiều khả năng sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nhất là thị trường xuất khẩu.
3. Những cơ chế chính sách có liên quan.
Chỉ thị 100 về việc đổi mới hoạt động HTX và sản xuất, thực hiện khoán hộ trong nông nghiệp đã mở đầu sự đổi mới trong chính sách nông nghiệp. Nghị quyết 10/TW đã làm rõ hơn, xá lập quyền tự chủ và quyền lợi của hộ nông dân trong sản xuất.Luật đất đai năm 1993 đã xác lập quyền của hộ nông dân trên mảnh ruộng của họ trong thời hạn được giao. Luật đất đai sửa đổi năm 1998 xác định thêm những quyền cơ bản của người sử dụng đất.
Khi người nông dân làm chủ mảnh đất của mình, họ tìm đến các giống cây con mới và các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất. Để đáp ứng yêu cầu này, nghị định 14/CP của chính phủ tháng 3 năm 1993 đã xác định cho hộ nông dân vay vốn và quyết định số 67/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/9/1999 quy định một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, đã tạo điều kiện cho việc phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Cùng với các chính sách về thuế, về tín dụng, về khuyến nông... và gần đây là chính sách phát triển trang trại, các chính sách thương mại nông sản cũng được nhà nước quan tâm đổi mới : xoá bỏ tình trạng cát cứ, ngăn sông cấm chợ, mở rộng tự do lưu thông hàng hoá nông sản trong nước; mở rộng quyền xuất khẩu nông sản cho các thành phần kinh tế; tích cực chủ động hội nhập vào thương mại khu vực và quốc tế; cải tiến hàng rào thuế quan và biện pháp phi thuế quan.
III. Những thuận lợi và hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh Hà Nam.
1. Những thuận lợi để phát triển kinh tế của tỉnh Hà Nam.
Những thành tựu để phát triển kin