Trong nền kinh tế hiện đại với tư liệu sản xuất rất phát triển và trình độ phân công lao động ngày càng cao thì xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên phổ biến với mỗi quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, các mối liên hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở phát huy tiềm năng và thế mạnh của mỗi quốc gia. Chính thương mại quốc tế là sợi dây nối kết nền kinh tế của các nước, tạo hiệu quả chung cho quá trình phát triển. Vì vậy hoạt động xuất nhập khẩu giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của các nước trong đó có Việt Nam.
104 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình, khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
lời nói đầu
Trong nền kinh tế hiện đại với tư liệu sản xuất rất phát triển và trình độ phân công lao động ngày càng cao thì xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên phổ biến với mỗi quốc gia. Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Thông qua hoạt động thương mại quốc tế, các mối liên hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở phát huy tiềm năng và thế mạnh của mỗi quốc gia. Chính thương mại quốc tế là sợi dây nối kết nền kinh tế của các nước, tạo hiệu quả chung cho quá trình phát triển. Vì vậy hoạt động xuất nhập khẩu giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế của các nước trong đó có Việt Nam.
ở nước ta, từ sau đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) với chính sách mở cửa nền kinh tế thì các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu ngày một đa dạng. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung, Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế Coalimex nói riêng không thể không tìm kiếm những giải pháp thích hợp hoàn thiện và tăng cường hoạt động kinh doanh của mình bởi vì xuất nhập khẩu là một hoạt động phức tạp sôi động và có tính cạnh tranh cao trên trường quốc tế. Đặc biệt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phải chú trọng đến việc quản lý hoạt động thanh toán của mình vì trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu người mua và người bán có sự khác biệt về điều kiện địa lý, luật pháp kinh doanh, tập quán buôn bán cũng như là đồng tiền sử dụng… thì hoạt động thanh toán càng trở nên phức tạp. Song song với điều đó thì công tác quản lý tài sản lưu động cũng gặp rất nhiều khó khăn và thường là kém hiệu quả.
Chính từ nhận thức trên của bản thân em và từ thực tiễn hoạt động của Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế Coalimex em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình, khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế - Coalimex ”. Với hy vọng sử dụng những kiến thức đã học kết hợp với tình hình thực tế tại công ty để đóng góp một số ý kiến, giải pháp cho hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động của Công ty trong thời gian tới.
Kết cấu luận văn của em gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động.
Chương II: Thực trạng khả năng thanh toán và tình hình quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex.
Chương III: Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình và khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài sản lưu động tại Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác quốc tế -Coalimex
Để có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này em rất cám ơn Thạc sỹ Lê Hương Lan đã tận tình chỉ bảo cho em đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các cô các chú, các anh chị tại phòng Kinh tế kế hoạch -Tài chính và trong toàn Công ty đã giúp đỡ em rất nhiều để hoàn thành luận văn này.
Chương 1:
Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh toán và quản lý tài sản lưu động
I. Hoạt động thanh toán trong doanh nghiệp
1.Khái niệm và vai trò của hoạt động thanh toán đối với doanh nghiệp.
Thanh toán là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ trong nền kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác giữa chủ thể này với chủ thể khác trong nền kinh tế.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều nhằm mục tiêu chung là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có một lượng tài sản nhất định. Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ được đánh giá tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao đổi - chỉ có thể được xác định trong một thời kỳ nhất định. Trong quá trình vận động - các nhân tố được kết hợp với nhau để tạo ra hàng loạt các dịch vụ có ích, phục vụ cho tiêu dùng hoặc để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy trong một thời kỳ nhất định các doanh nghiệp đã chuyển hoá các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra để trao đổi (bán).
Sản xuất -chuyển hoá
Đầu vào Đầu ra
Tài chính Tài chính
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ, có một loại tài sản đặc biệt là tiền. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian tiền. Do đó, tương ứng với dòng vật chất đi vào là dòng tiền hay dòng tài chính đi ra, đồng thời làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp các yếu tố đầu vào. Và ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra là dòng tiền hay dòng tài chính đi vào. Lúc này nghĩa vụ thanh toán cũng phát sinh giữa người mua với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình này, việc đầu tư, mua sắm tài sản của doanh nghiệp phải đảm bảo thu nhập do đầu tư đem lại lớn hơn chi phí đầu tư. Điều đó có nghĩa là các giá trị dòng tiền do tài sản tạo ra phải lớn hơn chi phí của các tài sản đó.
Vậy là một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải cùng lúc đạt được hai mục tiêu:
Lợi nhuận
Duy trì khả năng thanh toán
Trong hai mục tiêu này thì mục tiêu số một là tối ưu hoá lợi nhuận. Mục tiêu duy trì khả năng thanh toán thực chất cũng là để hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Trong hoạt động của mình, doanh nghiệp có duy trì được hoạt động kinh doanh, giảm thiểu được rủi ro thì mới có thể thu hút được lợi nhuận. Vì vậy, việc doanh nghiệp có duy trì được khả năng thanh toán hay không là rất quan trọng.
Hơn nữa, trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật. Do vậy, ngoài doanh nghiệp sẽ có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng, các chủ nợ, các nhà đầu tư. Không ai lại muốn cho vay hay đầu tư vào một doanh nghiệp mà tình hình tài chính yếu kém. Để biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay không cần phải xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp như thế nào. Nếu tình hình tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn. Điều đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động về vốn, bảo đảm quá trình kinh doanh thuận lợi. Ngược lại, tình hình tài chính kho khăn, doanh nghiệp nợ nần dây dưa kéo dài, mất tính chủ động trong kinh doanh và đôi khi dẫn đến tình trạng phá sản.
Nhiều doanh nghiệp đạt được lợi nhuận rất cao nhưng vẫn bị phá sản, nguyên nhân là do họ có một bảng cân đối tài sản không vững chắc: tình hình tài sản và nguồn vốn nếu xét riêng rẽ rất tốt nhưng họ bỏ qua mối quan hệ hữu cơ giữa tài sản và nguồn vốn. Tài sản lưu động tuy lớn nhưng không có khả năng trang trải các khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ đến hạn chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng nguồn vốn.
Như vậy, hoạt động thanh toán ảnh hưởng đến sự sống còn của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn, từ đó thu được lợi nhuận một cách an toàn. Các doanh nghiệp bị phá sản hầu hết là do không trả được các khoản nợ đến hạn chứ không phải trực tiếp do lợi nhuận thấp.
Do đó trong ba nội dung cơ bản của quản lý tài chính đối với doanh nghiệp:
Quyết định đầu tư
Huy động vốn (nguồn tài trợ dài hạn)
Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn
thì quản lý hoạt động thanh toán đóng vai trò hết sức quan trọng trong nội dung thứ ba kể trên. Ngoài việc xác định mục tiêu cho đầu tư dài hạn và tìm nguồn tài trợ cho đầu tư đó, doanh nghiệp phải chú trọng đến các quyết định tài chính ngắn hạn có liên quan chặt chẽ tới công tác quản lý tài sản lưu động và nợ ngắn hạn để không chỉ nâng cao khả năng sinh lợi mà còn bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2. Phương pháp, trình tự và nội dung phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2.1.Các phương pháp phân tích khả năng thanh toán
Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp là một nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp, nó cho ta một nền tảng vô cùng quan trọng để đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng khả năng thanh toán và đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém, phát huy những ưu điểm để nâng cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Vì là một nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp nên nó có các phương pháp tương tự như phân tích tài chính doanh nghiệp nói chung song vì khả năng thanh toán có những đặc thù riêng của nó và ta cũng xem xét nó ở một góc độ khác không quá ràng buộc với những nội dung khác của phân tích tài chính doanh nghiệp nên nhìn chung ta áp dụng những những phương pháp sau:
ơPhương pháp phân tích tỷ lệ
Trong phân tích khả năng thanh toán ta áp dụng phương pháp này rất phổ biến, đây là phương pháp dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính, trong phân tích tình hình và khả năng thanh toán thì đây chính là mối quan hệ giữa các chỉ tiêu nợ (chủ yếu là nợ ngắn hạn) và tài sản lưu động. Sự biến đổi của các đại lượng tài chính sẽ dẫn đến sự biến đổi của các tỷ lệ này một cách tương ứng. Về nguyên tắc phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu.
ưPhương pháp so sánh
Đây là phương pháp đơn giản nhất song lại có hiệu quả rất cao, so sánh giúp ta thấy rõ sự tăng giảm, đạt hay không đạt yêu cầu, tốt hay xấu của tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong các năm, các kỳ. Thường thì gốc so sánh được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, chỉ số bình quân của ngành, của doanh nghiệp dẫn đầu và trong phân tích về tình hình và khả năng thanh toán ta hay lấy giá trị so sánh là các số tương đối hay các tỷ lệ ta đã nói ở trên. Như vậy có thể nói khi phân tích tình hình và khả năng thanh toán ta vận dụng cả hai phương pháp trên theo thứ tự lần lượt: phương pháp tỷ lệ rồi đến phương pháp so sánh.
2.2.Trình tự và nội dung phân tích tình hình và khả năng thanh toán
Sau khi thu thập đủ các thông tin cần thiết ta tiến hành xác định các chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán như: tỷ lệ thanh toán hiện hành, tỷ lệ thanh toán tức thời, tỷ lệ thanh toán nhanh… Tiếp đó ta tiến hành phân tích chi tiết nhu cầu và khả năng thanh toán nhằm đánh giá chính xác tình hình thanh toán của doanh nghiệp trước mắt và triển vọng trong thời gian tới đây chính là bước lập bảng phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán và dựa vào đó đưa ra những nhận xét, kiến nghị nhất định.
3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của một doanh nghiệp như đã trình bày ở phần 1 liên quan tới cả hai bên bảng cân đối tài chính của doanh nghiệp đó, cụ thể là tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn.
Mối quan hệ này được biểu hiện qua các chỉ tiêu sau:
3.1.Vốn lưu động thường xuyên
Vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn
Công thức 1
Vốn lưu động thường xuyên là chỉ tiêu dùng để đánh gía điều kiện cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
Vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là khả năng thanh toán của doanh nghiệp khả quan, tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn.
Ngược lại, vốn lưu động thường xuyên < 0 nghĩa là tài sản lưu động không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng. Doanh nghiệp phải dùng một phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.
Trong trường hợp như vậy giải pháp của doanh nghiệp là giảm các khoản nợ ngắn hạn hay tăng đầu tư vào tài sản lưu động hoặc cả hai (trong mối quan hệ tương đối của các tài sản và nguồn vốn trong doanh nghiệp thì điều này cũng có nghĩa là tăng cường huy động vốn dài hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn).
3.2. Tỷ lệ thanh toán hiện hành
Tỷ lệ thanh Tài sản lưu động
=
toán hiện hành Nợ ngắn hạn
Công thức 2
Tỷ lệ thanh toán hiện hành là thước đo khả năng chi trả của một doanh nghiệp từ số tài sản sẵn có của mình.
Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng thanh toán cáng tốt và thường phải >1.
Theo nguyên tắc chung là 2: 1, tuy nhiên con số này thay đổi theo ngành nghề kinh doanh và theo từng công ty. Tỷ lệ này càng nhỏ bao nhiêu thì doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán bấy nhiêu; khi tỷ lệ này gần bằng không thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản.
3.3.Tỷ lệ thanh toán nhanh
Tỷ lệ thanh Tiền và các chứng khoán thanh khoản cao+ Phải thu
=
toán nhanh Nợ ngắn hạn
Công thức 3
Tỷ lệ thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ. Do vậy, chỉ có tiền, các chứng khoán thanh khoản (CKTK) cao và các khoản phải thu được tính đến với giả định rằng số hàng tồn kho không phải lúc nào cũng chuyển thành tiền được, do hư hỏng, lạc hậu hoặc do bản chất của mặt hàng đó.
Thông thường tỷ lệ này nếu > 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp là lành mạnh.
Ngược lại, nếu tỷ lệ này < 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Doanh nghiệp sẽ bán gấp sản phẩm, hàng hoá để thanh toán các khoản nợ đến hạn.
3.4. Tỷ lệ thanh toán tức thời
Tỷ lệ thanh toán tức thời thông thường nếu > 0,5 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp là khá tốt và ngược lại nếu < 0,5 thì doanh nghiệp khó khăn trong khâu thanh toán.
Tỷ lệ thanh Tiền và CKTK cao
=
toán tức thời Nợ ngắn hạn
Công thức 4
Tuy nhiên, tỷ lệ này nếu quá cao lại là điều không tốt vì điều đó có nghĩa là vòng quay của tiền quá chậm, hiệu quả sử dụng vốn như vậy là không cao.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
4.1.Các nhân tố khách quan
4.1.1Cơ chế chính sách của Nhà nước.
Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp buộc phải nắm rõ và tuân thủ vô điều kiện vì yếu tố này thể hiện ý chí của Nhà nước. Những quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ảnh hưởng chặt chẽ đến mọi hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có khả năng thanh toán. Ví dụ theo Nghị định của Chính phủ số 63/1998/NĐ-CP ngày 18/08/1998 về quản lý ngoại hối, với mục đích thanh toán tiền nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các doanh nghiệp được phép mở và duy trì tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng được phép sử dụng ngoại tệ trên tài khoản. Đồng thời theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức, các doanh nghiệp phải bán ngay tối thiểu 80% số ngoại tệ thu được từ các nguồn thu vãng lai cho các ngân hàng được phép trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày ngoại tệ được chuyển hoặc nộp vào tài khoản ngoại tệ doạnh nghiệp mở tại ngân hàng.
Ngoài ra, các chính sách ưu tiên, khuyến khích hay hạn chế phát triển đối với ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động thanh toán của doanh nghiệp.
4.1.2.Sự biến động của tỷ giá hối đoái
Đối với mọi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì tỷ giá hối đoái là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ. Nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động của tỷ giá, do đó khả năng thanh toán cũng bị ảnh hưởng. Chẳng hạn ngày 21/12/2000, doanh nghiệp cần thanh toán một lô hàng trị giá 10000 USD, nếu tỷ giá tại thời điểm đó là 14000VND/USD thì giá trị lô hàng sẽ ứng với 140000000VND, nhưng nếu tỷ giá tại thời điểm đó là 145000VND/ USD thì giá trị lô hàng sẽ là 145000000 VND, tức là chênh lệch so với giả thiết trước là 5000000 VND. Rõ ràng, tỷ giá biến động đã có tác động rất lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
4.1.3. Sự phát triển của thị trường tài chính
Kinh tế hàng hoá và thị trường luôn là những khái niệm gắn bó với nhau. Những hàng hoá thông thường được mua bán trên thị trường hàng hoá thông thường, còn những hàng hoá đặc biệt, tài sản tài chính, lại được mua bán trên thị trường đặc biệt - thị trường tài chính.
Do chu kỳ về thu nhập, chi tiêu và đầu tư khác nhau nên ở mỗi thời đểm nhất định trong nền kinh tế, về phương diện tài chính, luôn tồn tại hai nhóm người: nhóm người đi vay và nhóm người cho vay. Thị trường tài chính là thị trường trong đó vốn được chuyển từ người hiện có vốn dư thừa (người cho vay) sang những người thiếu vốn (người đi vay). Thị trường này thực hiện chức năng kinh tế cơ bản bằng cách truyền dẫn vốn từ người tiết kiệm sang những nhà đầu tư. Đối với doanh nghiệp, thị trường tài chính không chỉ là nơi để họ huy động vốn với các kỳ hạn khác nhau mà còn là nơi giúp họ nâng cao khả năng thanh toán, đáp ứng được các nhu cầu thanh toán ngắn hạn.
Giả sử một doanh nghiệp có nhu cầu tiền cấp bách, thông qua thị trường tài chính, họ có thể bán các chứng khoán mà mình nắm giữ để đáp ứng nhu cầu tiền trước mắt.
4.1.4.Nhân tố thị trường cạnh tranh
Là một chủ thể kinh tế, khả năng thanh toán của doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ với nhân tố thị trường. Thị trường chính là môi trường hoạt động của doanh nghiệp. Trong môi trường này, các doanh nghiệp phải tự đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp khác để chiếm lĩnh thị trường. Một doanh nghiệp chếm lĩnh được thị trường sẽ dễ dàng trì hoãn được các khoản nợ đến hạn, đồng thời có khả năng dễ dàng trì hoãn được các khoản nợ đến hạn, đồng thời có khả năng chuyển hàng tồn kho thành tiền một cách nhanh chóng, do đó đáp ứng được nhu cầu thanh toán một cách nhanh nhất.
4.2. Nhân tố chủ quan
4.2.1 Cơ cấu tài sản và cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp
Cơ cấu tài chính là tỷ trọng giữa các nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có tổng các khoản nợ ngắn hạn lớn hơn tài sản lưu động của mình thì tình hình tài chính của doanh nghiệp đó là thiếu lành mạnh, khả năng thanh toán quá yếu kém.
Trong các nguồn tài trợ của doanh nghiệp, nợ ngắn hạn là nguồn tài trợ có chi phí tương đối nhỏ song nó lại yêu cầu doanh nghiệp phải theo dõi một cách chặt chẽ, sát sao bởi vì nó gây áp lực nên hoạt động thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng doanh nghiệp có thể trì hoãn các khoản là rất thấp hoặc nếu có trì hoãn được thì chi phí cũng sẽ rất cao. Thông thường các doanh nghiệp cố gắng duy trì mức nợ ngắn hạn bằng 50% tổng tài sản lưu động.
Tuy nhiên, việc duy trì tỷ trọng nợ ngắn hạn trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, khả năng huy động các nguồn vốn dài hạn, khả năng huy động các nguồn vốn dài hạn, khả năng linh hoạt về tài chính của doanh nghiệp.
4.2.2.Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp sử dụng vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện bảo toàn và phát triển vốn, tránh được lãng phí vốn, đồng thời tạo được uy tín với bạn hàng. Việc doanh nghiêp tiết kiệm được nhiều vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp một cách gián tiếp nâng cao khả năng thanh toán.
Vì vậy, trong quản lý vốn lưu động, doanh nghiệp cần xác định được lượng vốn lưu động cần thiết trong kỳ kinh doanh, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu nhằm ngăn chặn hiện tượng chiếm dụng vốn, tránh ứ đọng vốn, thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn và thường xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động nhằm có các biện pháp điều chỉnh kịp thời, bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
4.2.3.Quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp.
Một doanh nghiệp có quan hệ tốt với khách hàng và nhà cung cấp thì có rất nhiều điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có thể tận dụng nguồn vốn bằng cách mua bán hàng hoá chịu lẫn nhau. Đây là hình thức tín dụng nhà cung cấp hay tín dụng thương mại.
Hình thức tín dụng này xuất hiện do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, gây ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng hoá muốn bán nhưng không có nhu cầu ngay về tiền mặt trong khi đó có một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền.
Trong điều kiện như vậy, doanh nghiệp với tư cách là người bán có thể bán chịu hàng hoá của mình cho người mua, mà thực chất là cho vay dưới dạng hàng hoá, dịch vụ và sẽ thu lại giá trị cho vay cùng với lợi tức bằng tiền. Ngược lại, với tư cách là người mua, doanh nghiệp có thể mua chịu hàng hoá. Nguồn này trong bảng cân đối của doanh ngiệp dưới dạng khoản