Ngành dệt may là một ngành tiên phong của phần lớn các quốc gia khi bước vào công cuộc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vị trí quan trọng của ngành dệt may trong nền kinh tế là do ngành này phục vụ nhu cầu tất yếu của con người, tạo được nhiều việc làm cho xã hội, đồng thời việc xuất khẩu hàng dệt may giúp cho cán cân thanh toán quốc tế của nước xuất khẩu ngày càng tốt hơn.
100 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1581 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mĩ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
N
gành dệt may là một ngành tiên phong của phần lớn các quốc gia khi bước vào công cuộc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vị trí quan trọng của ngành dệt may trong nền kinh tế là do ngành này phục vụ nhu cầu tất yếu của con người, tạo được nhiều việc làm cho xã hội, đồng thời việc xuất khẩu hàng dệt may giúp cho cán cân thanh toán quốc tế của nước xuất khẩu ngày càng tốt hơn.
Quá trình phát triển của các nước công nghiệp tiên tiến như Anh, Pháp, Nhật... trước đây, cũng như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... hiện nay đều đã trải qua bước phát triển sản xuất, xuất khẩu những sản phẩm dệt may và coi đây là một ngành xuất khẩu chủ yếu.
Ngành dệt may Việt Nam sớm được phát triển, nó thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động ngoại thương nói riêng từ những năm 90 trở lại đây. Đến nay, ngành dệt may được coi là một trong những ngành có lợi thế nhất của Việt Nam bởi nó sử dụng nhiều lao động và mang về nguồn ngoại tệ rất lớn cho đất nước (chỉ đứng sau ngành dầu khí). Mấy năm qua kim ngạch xuất khẩu của ngành này luôn tăng trưởng mạnh, rất khả quan trong việc đạt và vượt mục tiêu xuất khẩu theo quy hoạch tổng thể của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2005 là 4-5 tỷ USD và năm 2010 là 8-9 tỷ USD. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu ngành này phải duy trì mức tăng trưởng 14%/ năm; muốn đạt được điều đó toàn ngành cần có nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó việc mở rộng thị trường là vấn đề mấu chốt. Thị trường dệt may tại Mĩ là một thị trường rất tiềm năng, việc mở rộng thị trường hàng dệt may Việt Nam tại đây là vấn đề then chốt giúp ngành dệt may đạt chỉ tiêu. Bài viết này với nhan đề " mot so giai phap nham day manh xuat khau hang det may cua viet nam vao thi truong mi " sẽ đi sâu phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mĩ (1997-2002) và đề ra một số giải pháp chính nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này.
Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận, được chia làm 3 chương chính:
Chương I : Lý luận chung về xuất khẩu và tình hình sản xuất, buôn bán hàng dệt may trên thế giới.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ, giai đoạn 1997-2002.
Chương III: Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mĩ.
Một thị trường rộng lớn như thị trường Mĩ, với cung cách làm ăn riêng có, những thói quen tiêu dùng mang đậm bản sắc Mĩ, những con người đầy cá tính mạnh mẽ và quyết đoán,... tất cả tạo nên một môi trường kinh doanh hết sức hấp dẫn với bất kỳ một ngành hàng nào của bất kỳ quốc gia nào muốn mở rộng thị trường, với dệt may Việt Nam thì đây quả là một thị trường đầy tiềm năng. Đây chính là nguyên nhân khiến nhiều tác giả đã cố công tìm hiểu về thị trường này nói chung và cho dệt may nói riêng. Quả thực là rất tiềm năng, nhưng để hàng dệt may Việt Nam chiếm lĩnh được thị trường Mĩ lại không phải dễ; bởi những diễn biến phức tạp của động thái thị trường, những yếu tố ảnh hưởng như hệ thống pháp luật, chính sách hạn chế nhập khẩu tinh tế, hạn ngạch,... luôn làm nản lòng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Nhưng cũng chính bởi vậy, việc tìm kiếm các giải pháp hợp lý, mang tính thực tiễn cao nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường này lại luôn hấp dẫn. Thực tế, đã có đông đảo các tác giả tham gia nghiên cứu các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường Mĩ, theo đó một khối lượng lớn các bài viết liên quan ra đời. Theo trào lưu chung tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với mong muốn tìm ra những giải pháp mang tính mới mẻ và thực tế cao nhằm giúp các doanh nghiệp dệt may Việt nam có thể tham khảo, đánh giá từ đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất cho mình, đồng thời đây cũng tài liệu tham khảo bổ ích cho các bạn đọc quan tâm đến dệt may Việt nam.
CHƯƠNG I
Lý LUậN CHUNG Về XUấT KHẩU
và tình hình sản xuất, buôn bán hàng dệt may
trên thế giới
I . khái niệm và vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động bán, cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho bên nước ngoài (bao gồm việc bán, cung cấp hàng hoá và dịch vụ sang thị trường nước ngoài; bán, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho người nước ngoài ở trong nước hay bán, cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp thuộc các khu công nghiệp, khu chế xuất ở trong nước hoặc hàng hoá và dịch vụ từ các khu chế xuất bán ra thị trường trong nước) trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán; tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một bên hay hai hoặc nhiều bên đối tác.
Mục tiêu của xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trong phân công lao động quốc tế, nhằm phục vụ mục đích cuối cùng là tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp xuất khẩu, tăng ngân quỹ quốc gia,... ngoài ra nó còn là cơ sở để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đồng thời giúp cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất của hoạt động thương mại quốc tế. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm rất rộng, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá hữu hình như hàng hoá tiêu dùng, nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị,... mà cả hàng hoá vô hình như công nghệ, các dịch vụ ngân hàng, bưu chính viễn thông, giao thông, vận tải,...với tỷ trọng ngày càng lớn. Hoạt động xuất khẩu diễn ra rộng khắp cả về không gian và thời gian; nó có thể diễn ra trong thời gian rất ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm hoặc vài năm, thậm chí kéo dài hàng thế kỷ; nó có thể diễn ra trên phạm vi một quốc gia hoặc một nhóm các quốc gia hay trên phạm vi toàn thế giới.
Bàn về vai trò của hoạt động xuất khẩu
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, không một quốc gia nào có thể tự sản xuất tất cả các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu trong nước. Vì vậy tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế là điều cần thiết đối với mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia phải thông qua trao đổi, mua bán với các quốc gia khác nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình đồng thời khai thác tối đa tiềm lực đất nước phục vụ cho mục đích tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Như vậy, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển của quốc gia so với thế giới, đồng thời nó là chiếc cầu nối của nền kinh tế toàn cầu. Vai trò của hoạt động xuất khẩu được thể hiện rõ như sau:
* Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu của tiến trình phát triển kinh tế xã hội; đặc biệt đối với các nước đang và kém phát triển, nó khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên nó đòi hỏi một lượng vốn đủ lớn để đầu tư, nhập khầu máy móc, thiết bị... Xuất khẩu là một trong những hình thức thu hút vốn quan trọng của mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Một quốc gia đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá tất nhiên là cần nhập khẩu những thiết bị công nghệ hiện đại để khai thác chế biến nguồn tài nguyên sẵn có. Tuy nhiên, những quốc gia này thường không có đủ tiềm lực tài chính để làm việc đó, ngoài những biện pháp như vay nợ, nận tài trợ nước ngoài, quốc gia này thường chọn biện pháp an toàn là tăng cường xuất khẩu những gì sẵn có để bổ xung cho nguồn vốn hạn hẹp của mình.
Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất
Tuỳ thuộc vào chính sách hướng ngoại hay hướng nội của mỗi quốc gia mà xuất khẩu có mức độ tác động đến chuyển dịch cơ cấu và phát triển sản xuất khác nhau
+ Với chính sách hướng nội, các hoạt động sản xuất đều nhằm phục vụ các nhu cầu trong nước là chủ yếu, việc xuất khẩu chỉ được thực hiện đối với những sản phẩm thừa so với nhu cầu xã hội.Vì vậy, xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi nhỏ, tăng trưởng chậm, không phát huy được lợi thế so sánh của quốc gia, các ngành sản xuất kinh doanh không có cơ hội phát triển. Điều này có nghĩa là cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và không kích thích phát triển mạnh sản xuất vì hoạt động sản xuất phụ thuộc phần lớn vào nhu cầu trong nước và nguồn lực nội tại của quốc gia.
+ Với chính sách hướng ngoại, thị trường thế giới được coi là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu; việc xuất khẩu hàng hoá có tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ trong cùng nhóm ngành; các nhóm ngành trong tổng thể nền kinh tế lại có liên quan với nhau trên giác độ vĩ mô, do đó xuất khẩu là nhân tố có ảnh hưởng đáng kể đến chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy phát triển nền sản xuất của toàn xã hội:
_ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nhóm ngành hàng có liên quan có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, ngành may công nghiệp phát triển, sẽ kéo theo sự phát triển ngành dệt phục vụ nó phát triển, tiếp đến sự phát triển của ngành dệt thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp sợi và trước đó là nghề trồng bông, dâu tằm…
_ Xuất khẩu có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Thông qua xuất khẩu, nhu cầu về một sản phẩm sẽ tăng cao, nó lôi cuốn một lượng lớn lao động xã hội tương xứng, vô hình chung lượng lao động này sẽ chuyên sản xuất một mặt hàng, để duy trì sự tồn tại của mình họ tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất của sản phẩm đó. Xét tổng thể, mức độ chuyên môn hoá và hiệu qủa sản xuất của quốc gia sẽ tăng lên.
_Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định nền sản xuất sản phẩm cho xã hội, tạo lợi thế kinh doanh nhờ tăng qui mô. Một sản phẩm đã được xuất khẩu có nghĩa là thị trường của nó được mở rộng, kéo theo quy mô sản xuất sản phẩm đó được mở rộng, nếu nhiều sản phẩm trong tổng thể nền sản xuất xã hội được xuất khẩu thì nền sản xuất xã hội sẽ được ổn định.
_Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. Ngoài hình thức xuất khẩu gia công- hình thức nhập nguyên liệu về và xuất thành phẩm trở lại nước cung cấp nguyên liệu thì xuất khẩu thường đi liền với nhập khẩu những đầu vào liên quan đến sản xuất hàng xuất khẩu do đó khả năng cung cấp đầu và cho sản xuất được mở rộng, đồng thời xuất khẩu đem lại thu nhập xã hội do đó khả năng tiêu dùng xã hội tăng lên.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho hàng hoá của một quốc gia thâm nhập và cạnh tranh trên thị trường thế giới
Trong một nền kinh tế đóng, các hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá chỉ diễn ra trong phạm vi một nước; các loại sản phẩm được sản xuất trong nước, tiêu dùng nội địa nên không có sức cạnh tranh. Trong khi nền kinh tế mở, hoạt động ngoại thương được mở rộng, các sản phẩm sản xuất trong nước được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Các sản phẩm này luôn gặp sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại trên cùng một thị trường, nhưng khi đã có chỗ đứng trên thương trường, các sản phẩm này sẽ có điều kiện thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới.
Xuất khẩu giúp mở rộng ảnh hưởng của quốc gia đó trên trường quốc tế.
Xuất khẩu nói riêng, hoạt động ngoại thương nói chung, là bước đệm cho việc thiết lập quan hệ giữa các quốc gia. Hoạt động ngoại thương giữa các quốc gia càng phát triển thì sự phụ thuộc giữa các quốc gia về mặt kinh tế càng lớn, phụ thuộc kinh tế sẽ kéo theo ảnh hưởng ít nhiều về chính trị. Như vậy có thể nói, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quốc gia có một phần nguyên nhân từ hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Xuất khẩu kích thích phát triển sản xuất trong nước qua đó tạo việc làm cho lao động xã hội, tăng thu nhập, tăng khả năng chi tiêu của họ, từ đó giảm thất nghiệp trong nước. Mặt khác, xuất khẩu còn tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng làm cho người dân trở nên sung túc hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ.
Xuất khẩu làm nền tảng để mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu, cơ bản, là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế...phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
2.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Mở rộng thị trường là nhu cầu tất yếu của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn phát triển bền vững và có vị thế trên thương trường, việc mở rộng này được thực hiện phần lớn thông qua hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau:
Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Chẳng hạn, một doanh nghiệp may muốn đưa sản phẩm của mình vào thị trường Mĩ, họ phải tổ chức lại cơ cấu sản xuất sao cho có hiệu quả nhất để sản phẩm của họ cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh, đồng thời phải thoả mãn các điều kiện mà phía Mĩ đưa ra.
Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Sản phẩm đã xuất khẩu luôn gặp sự cạnh tranh mạnh mẽ của các sản phẩm cùng loại trên cùng một thị trường, nguy cơ bị mất vị thế luôn có thể sảy ra, các doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm của mình để giữ vững vị thế và tiếp tục mở rộng thị trường.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Một khi sản phẩm đã có vị thế trên thị trường, uy tín của doanh nghiệp sẽ được nâng cao; các khách hàng, các bạn hàng biết đến danh tiếng của doanh nghiệp ngày một nhiều; đơn đặt hàng, số lượng sản phẩm ngày một tăng. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp có thêm mối quan hệ, thêm lợi nhuận và rủi ro cũng giảm bớt.
Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng cường xuất khẩu là mục tiêu cốt yếu của mọi doanh nghiệp xuất khẩu, để thực hiện mục tiêu này, các doanh nghiệp phải tăng cường các hoạt động như các hoạt động đầu tư, nghiên cứu thị trường, hoạt động phát triển sản xuất, marketing..., cũng như tăng cường phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép.
Xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao giúp doanh nghiệp bù đắp chi phí, có lãi, tích luỹ nhằm nâng cấp xây mới cơ sở vật chất, bảo dưỡng hoặc trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường .
Như vậy, xuất khẩu có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự tăng trưởng phát triển của nền kinh tế mà nó còn giúp bình ổn xã hội của một quốc gia đồng thời là mạnh lưu thông của nền kinh tế toàn cầu, tuy nhiên muốn phát huy vai trò của nó cần phải tìm hiểu sâu hơn ở nội dung và các hình thức xuất khẩu.
II . các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu đời, ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản ban đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay nó đã rất phát triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức, các hình thức đó là:
1. Xuất khẩu trực tiếp
Đây là hình thức xuất khẩu trong đó bên xuất khẩu và bên nhập khẩu trực tiếp giao dịch với nhau, bên xuất khẩu trực tiếp giao hàng cho bên nhập khẩu mà không qua một khâu trung gian nào.
Trước khi thực hiện giao dịch này, các bên phải làm một loạt các công việc như: gặp mặt để trao đổi hoặc thông qua thư từ, điện tín để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao hàng... Sau khi đã thoả thuận đầy đủ mọi điều khoản, các bên sẽ ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Hạn chế của hình thức xuất khẩu này là có thể làm tăng rủi ro trong kinh doanh do các doanh nghiệp chưa hiểu rõ thị trường bên ngoài, chưa nắm rõ được các thói quen kinh doanh, cũng như thị hiếu của người tiêu dùng; các rủi ro trong đàm phán và ký kết hợp đồng, rủi ro về vận tải biển, rủi ro trong giao nhận hàng.
Tuy nhiên, hình thức này lại có ưu điểm là giúp cho các doanh nghiệp giảm bớt được các chi phí trung gian do đó có thể tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Do các doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp, đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài nên có thể nắm bắt nhanh và chính xác nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, xu hướng biến động của thị trường từ đó có thể đưa ra những chính sách linh hoạt về sản phẩm sao cho phù hợp; nhờ đó việc mở rộng thị trường cho sản phẩm sẽ thuận lợi hơn.
Xuất khẩu trực tiếp thường được áp dụng ở những doanh nghiệp có nguồn vốn đủ lớn, đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực và trình độ chuyên môn cao; đồng thời sản phẩm được xuất khẩu thường đã có vị thế trên thị trường trong nước và quốc tế.
2. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức xuất khẩu mà trong đó việc thiết lập quan hệ giữa người bán và người mua đều phải thông qua khâu trung gian thương mại- người thứ ba- đó là các môi giới hoặc đại lý.
Do quá trình trao đổi giữa người bán với người mua phải thông qua một người thứ ba nên tránh được những rủi ro gây ra từ việc không am hiểu thị trường như nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng hoặc do sự biến động của nền kinh tế.Tuy nhiên áp dụng phương thức giao dịch này, doanh nghiệp phải phụ thuộc nhiều vào các đại lý, các đại lý hoạt động có hiệu quả thì hoạt động xuất khẩu mới suôn sẻ, đồng thời doanh nghiệp phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm xuống.
Hình thức này thường áp dụng ở những doanh nghiệp mới vươn ra thị trường nước ngoài, sản phẩm xuất khẩu thường là những sản phẩm mới hoặc những sản phẩm có tính cạnh tranh cao .
3. Xuất khẩu uỷ thác
Xuất khẩu uỷ thác là hình thức mà trong đó một bên (bên có sản phẩm xuất khẩu) uỷ quyền cho một bên thứ ba đứng ra đóng vai trò là người trung gian thay mình ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương với người nhập khẩu, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá của bên uỷ quyền. Bên uỷ quyền sẽ phải trả một khoản tiền gọi là "phí uỷ thác"(thường tính theo %giá trị lô hàng) cho bên được uỷ quyền.
Hình thức này có ưu điểm là dễ áp dụng, bên có sản phẩm xuất khẩu không phải bận tâm việc đàm phán ký kết hợp đồng, các thủ tục xuất nhập khẩu; do đó tiết kiệm được thời gian, giảm rủi ro. Tuy nhiên nó có hạn chế là lợi nhuận bị chia sẻ, việc thu thập thông tin thị trường gặp khó khăn do đó khó có phản ứng linh hoạt với những biến động của thị trường, thiếu chủ động trong việc xuất khẩu sản phẩm của mình.
Hình thức này được áp dụng chủ yếu ở những doanh nghiệp có tiềm lực hạn chế, chưa có chỗ đứng thật vững chắc trên thị trường hoặc không được phép xuất khẩu trực tiếp.
4. Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất
khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. ở đây, mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về ngoại tệ, mà nhằm thu về một lượng hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán. Tuy nhiên buôn bán đối lưu làm hạn chế quá trình trao đổi hàng hoá, việc giao nhận hàng hoá khó tiến hành được thuận lợi. Bởi nguyên tắc của buôn bán đối lưu là hàng có giá trị cao đổi lấy hàng có giá trị cao, hàng có giá trị thấp đổi lấy hàng có giá trị thấp, không phải lúc nào các bê