Đề tài Một số giải pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà

Trong nền kinh tế vẫn hành theo cơ chế thị trường, việc sản xuất hàng hóa phải tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường. Một quy luật rất cơ bản là quy luật cạnh tranh. ở đó các doanh nghiệp muốn tồn tại, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường phả thắng lợi trong cạnh tranh. Và chất lượng sản phẩm ngày nay đã là một trong những vũ khí cạnh tranh quan trọng nhất của các doanh nghiệp. Ngày nay nhân loại đang chứng kiến những thay đổi lớn. Đó là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn ra một cách mạnh mẽ và nhanh chóng. Nó ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực đặc biệt là đối với công nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của các cuộc cách mạng ấy kéo theo một cuộc cách mạng mới - cuộc “cách mạng chất lượng” đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa. Và như thế chất lượng sản phẩm càng trở nên là một vũ khí cạnh tranh quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với Công ty Bánh kẹo Hải Hà“chất lượng sản phẩm quyết định đến đời sống và sự tồn tại của Công ty” cho nên không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ thực tế đó trong thời gian thực tập tại Công ty Bánh kẹo Hải Hà em chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà ”. Nhằm góp phần nhỏ bé của mình tìm ra những quan điểm, phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty. Đề tài này đi sâu vào nghiên cứu chất lượng sản phẩm của Công ty Bánh kẹo Hải Hà, từ đó đề xuất các biện pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Với nghĩa như vậy chuyên đề bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: Chương I: Những lý luận chung về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm. Chương II: Thực trạng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà trong thời gian qua. Chương III: Phương hướng và biện pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà.

doc103 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế vẫn hành theo cơ chế thị trường, việc sản xuất hàng hóa phải tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường. Một quy luật rất cơ bản là quy luật cạnh tranh. ở đó các doanh nghiệp muốn tồn tại, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường phả thắng lợi trong cạnh tranh. Và chất lượng sản phẩm ngày nay đã là một trong những vũ khí cạnh tranh quan trọng nhất của các doanh nghiệp. Ngày nay nhân loại đang chứng kiến những thay đổi lớn. Đó là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn ra một cách mạnh mẽ và nhanh chóng. Nó ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực đặc biệt là đối với công nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của các cuộc cách mạng ấy kéo theo một cuộc cách mạng mới - cuộc “cách mạng chất lượng” đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa. Và như thế chất lượng sản phẩm càng trở nên là một vũ khí cạnh tranh quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với Công ty Bánh kẹo Hải Hà“chất lượng sản phẩm quyết định đến đời sống và sự tồn tại của Công ty” cho nên không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ thực tế đó trong thời gian thực tập tại Công ty Bánh kẹo Hải Hà em chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà ”. Nhằm góp phần nhỏ bé của mình tìm ra những quan điểm, phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty. Đề tài này đi sâu vào nghiên cứu chất lượng sản phẩm của Công ty Bánh kẹo Hải Hà, từ đó đề xuất các biện pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Với nghĩa như vậy chuyên đề bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: Chương I: Những lý luận chung về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm. Chương II: Thực trạng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà trong thời gian qua. Chương III: Phương hướng và biện pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà. CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM I. CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, ĐẢM BẢO VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM. 1.Chất lượng sản phẩm. a.Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là một phạm trù phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kinh tế - xã hội và công nghệ liên quan đến rất nhiều đối tượng khác nhau trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Về bản chất, chất lượng sản phẩm chính là giá trị sử dụng của hàng hóa. Do đó đứng trên góc độ khác nhau có rất nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng sản phẩm. Có thể khái quát các điểm đó theo hai trường phái. Trường phái có quan niệm chất lượng đơn thuần hướng theo công nghệ và trường phái hướng theo khách hàng. Các tác giả thuộc trường phái chất lượng hướng theo công nghệ quan niệm về chất lượng sản phẩm như sau: Chất lượng sản phẩm là hệ thống những đặc trưng nội tại của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được hoặc so sánh được, những thông số này lấy ngay trong sản phẩm đó hoặc có thể sử dụng của nó. Quan điểm này dựa trên quan niệm cho rằng chất lượng sản phẩm được quyết định bởi các đặc tính nội tại của sản phẩm mà không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Ngược lại các tác giả theo trường phái thứ hai cho rằng, chất lượng sản phẩm trước hết phụ thuộc vào khách hàng. Những chuyên gia nổi tiếng về chất lượng như: Crosbai, J.juran, Demming... đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng sản phẩm dữa trên cơ sở nhận thức của khách hàng như: “Chất lượng sản phẩm là sự thích ứng của sản phẩm đó với mục đích người tiêu dùng”. Hoặc “Chất lượng sản phẩm là cái mà khách hàng phải trả đúng với cái mà họ được nhận”. Những quan niệm về chất lượng sản phẩm như trên đều quan niệm chất lượng có liên quan chặt chẽ đến mức độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Họ là người xác định rõ chất lượng sản phẩm. Khoảng cách giữa cái mà khách hàng mong đợi với cái mà họ nhận được từ sản phẩm càng nhỏ thì chất lượng càng cao và ngược lại, khoảng cách đó càng lớn thì chất lượng càng thấp. Như vậy hai trường phái chất lượng trên đều có nhược điểm, nếu theo trường phái thứ nhất thì khi xem xét về chất lượng sản phẩm họ chỉ chú ý tới các đặc tính nội tại của sản phẩm mà không chú ý tới yêu cầu của khách hàng. Nếu theo trường phái thứ hai thì họ chỉ chú ý tới sự phù hợp của chất lượng sản phẩm mà bỏ qua những đặc tính vố có của sản phẩm. Ngoài hai trường phái trên còn có một định nghĩa về chất lượng sản phẩm rút ra từ hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 được đa số chấp nhận và phổ biến trên thế giới: “Chất lượng là mức độ tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu ”. Đây có thể nói là một quan niệm hiện đại về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là tập hợp những thuộc tính nhằm thoả mãn nhu cầu phù hợp với công dụng của nó, nhưng nó không bao gồm hết mọi thuộc tính của sản phẩm mà chỉ bao gồm những thuộc tính làm cho sản phẩm có khả năng thoả mãn được những nhu cầu nhất định, phù hợp với công dụng của nó. Tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong chất lượng sản phẩm không phải là một sự cộng đơn thuần mà trong đó các thuộc tính có tác động tương hộ với nhau. Sự thay đổi thành phần, cấu tạo và mối quan hệ trong tập hợp các huộc tính sẽ tạo ra các chất lượng khác nhau. Ví dụ yêu cầu đối với thực phẩm là: + Hàm lượng chất dinh dưỡng. + Hàm lượng vệ sinh: Hàm lượng chất độc cho phép. Nếu hàm lượng chất dinh dưỡng vẫn cao nhưng hàm lượng chất độc vượt quá cho phép thì lập tức chất lượng sản phẩm này bằng 0 (tức là không đạt tiêu chuẩn chất lượng). Những chỉ tiêu, những thuộc tính của sản phẩm là những đặc tính về công nghệ, nhưng cũng có thể là các đặc tính về kinh tế, xã hội khác. Các đặc tính này rất phong phú và đa dạng như: - Các tính chất các định tính năng, tác dụng và công nghệ của sản phẩm đó. - Những tính chất thẩm mỹ: Hình dáng, kiểu cách, mầu sắc. - Độ tin cậy của sản phẩm. - Tuổi đời của sản phẩm. - Tính an toàn. - Phù hợp với môi trường. - Phù hợp với sản phẩm khác. - Dễ vận chuyển. - Giá hợp lí. - Tiết kiệm, dễ sử dụng... b. Phân loại chất lượng sản phẩm. Để hiểu được bản chất của chất lượng sản phẩm, người ta chia chất lượng sản phẩm thành hai loại: Chất lượng sản phẩm tuân thủ thiết kế và chất lượng sản phẩm trong sự phù hợp với nhu cầu khách hàng. - Chất lượng trong sự phù hợp với nhu cầu khách hàng thông qua trình độ thiết kế của các đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của sản phẩm. Mức độ chất lượng phù hợp vào trình độ thiết kế sản phẩm. Đối với khách hàng mức độ phù hợp của các đặc điểm thiết kế càng cao thì chất lượng sản phẩm càng cao. Nâng cao chất lượng của các đặc điếm của các phẩm có tác dụng mạnh mẽ đều tăng khả năng tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. - Chất lượng tuân thủ thiết kế: Phản ánh múc độ đạt được trong thực tế của các đặc điểm sản phẩm so với yêu cầu thiết kế đặt ra. Sản phẩm càng ít khuyết tật và những trục trặc trong quá trình sản xuất, tiêu dùng thì chất lượng càng cao. Chất lượng tuân thủ thiết kế có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí biểu hiện qua: + Lượng phế phẩm và các sản phẩm phải sửa lại trong qua trình sản xuất. + Sự xuống cấp của sản phẩm trong qua trình lưu thông phân phối. + Lượng sản phẩm phải sửa chữa hoặc thay thế chi tiết trong quá trình sử dụng. Nâng cao chất lượng, tuân thủ thiết kế còn có ý nghĩa rất quan trọng góp phần sử dụng năng lực sản xuất có hiệu quả hơn. Sự phân chia chất lượng sản phẩm theo hai loại này có tác động trực tiếpđến xác định, lựa chọn phương hướng,phương thức và biện pháp quản lí nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp. Ngoài ra theo hệ thông chất lượng ISO 9000 người ta lại phân ra các loại chất lượng sau đây: - Chất lượng thiết kế của sản phẩm là giá trị riêng của các thuộc tính được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu trắc nghiệm của sản xuúat và tiêu dùng. Đồng thời có so sánh với hàng tương tự của nhiều nước. Chất lượng thiết kế được hình thành ở giai đoạn đầu của các quá trình hình thành chất lượng sản phẩm. - Chất lượng phê chuẩn: Là giá trị riêng của những thuộc tính của sản phẩm được thừa nhận, được phê chuẩn trong qúa trình quản lí chất lượng sản phẩm. Chất lượng phê chuẩn có ý nghĩa pháp lệnh buộc phải thực hiện nghiêm chỉnh trong quá trình quản lí chất lượng sản phẩm. - Chất lượng thực tế: Chỉ mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm. Bao gồm chất lượng thực tế trong sản xuất và chất lượng thực tế trong sử dụng. - Chất lượng cho phép: Là dung sai cho phép giữa chất lượng thực tế và chất lượng phê chuẩn. Chất lượng cho phép phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật của từng bước, phụ thuộc vào trình độ lành nghề của nhân công. Khi chất lượng thực tế của sản phẩm vượt quá dung sai cho phép thì hàng hóa sẽ bị xếp vào loại phế phẩm. - Chất lượng tối ưu: Biểu thị khả năng thoả mãn toàn diễn nhu cầu của thị trường trong những điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất.Thường người ta phải giải quyết được mối quan hệ giữa chi phí và chất lượng sao cho chi phí thấp nhất mà chất lượng vẫn đảm bảo. Biểu đồ số 1. Chi phí Chú thích: (a): Đường cong giá bán sản phẩm. a (b): Đường cong giá thành sản phẩm. b Q1:Chất lượng thấp, giá thành thấp. Q2: ứng với khoảng cách lớn nhất giữa hai đường cong là mức chất lượng có lợi nhuận lớn nhất. Q1 Q2 Q3 Chất lượng Q3: Sản phẩm có chất lượng cao nhưng lợi nhuận không cao, vì vậy quyết định mức chất lượng sao cho phù hợp là một vấn đề quan trọng. Điều đó phụ thuộc vào đặc đIểm tiêu dùng của từng nước, từng vùng và tuỳ thuộc vào mục tiêu của doanh nghiệp. Chẳng hạn nếu mục tiêu là thắng thế trong cạnh tranh thì doanh nghiệp nên chọn mức chất lượng Q3 là sản phẩm có chất lượng cao có thể thắng thế trong cạnh tranh. 2. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. a. Quản lí chất lượng. Trong nhiều năm trước kia người ta quan niệm quản lí chất lượng chủ yếu là các hoạt động kiểm tra, theo dỏi, giám sát qua trình sản xuất nhằm đạt được những tiêu chuẩn chất lượng tiêu chuẩn đặt ra. Quan niệm quản lí chất lượng theo nghĩa hẹp này làm hạn chế những nội dung quản lí chất lượng. Nhiệm vụ quản lí chất lượng trong phạm vi hẹp chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất và là trách nhiệm của các phòng ban, các bộ phận kiểm tra chất lượng của công ty. Quan niệm này có rất nhiều hạn chế không đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế trong quản lí chất lượng hiện nay. Ngày nay quan điểm quản lí chất lượng theo nghĩa rộng được chấp nhận, ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Quản lí chất lượng được hiểu là: “Quản lí chất lượng là một hệ thống các biện pháp công nghệ sản xuất, tạo điều kiện sản xuất kinh tế nhất các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng. Làm công tác chất lượng có ý nghĩa là nghiên cứu, triển khai, thiết kế, sản xuất và bảo dưỡng một sản phẩm có chất lượng kinh tế nhất, có ích cho người tiêu dùng và bao giờ cũng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng” . Quan niệm này có những đặc điểm sau đây: - Sản phẩm được coi là tất cả những đầu ra của mọi quá trình không kể đó là quá trình sản xuất hay quá trình quản lí. Nó bao gồm sản phẩm sản phẩm và dịch vụ hoàn chỉnh bán ra ngoài và tất cả những hoạt động và dịch vụ thực hiện trong nội bộ công ty không để bán. - Khách hàng bao gồm cả khách hàng bên trong và khách hàng bên ngoài công ty. Tất cả các cá nhân, tổ chức sử dụng những loại sản phẩm trên đều là khách hàng của công ty. Quản lí chất lượng có nhiệm vụ nâng cao chất lượng của tất cả các loại sản phẩm của tất cả các loại sản phẩm trên để thoả mãn nhu cầu của tất cả mọi loại khách hàng một cách tiết kiệm nhất. - Quản lí chất lượng là vấn đề kinh doanh có ý nghĩa chiến lược chứ không phải chỉ là vấn đề công nghệ, kỹ thuật đơn thuần. Quản lí chất lượng là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch kinh doanh của công ty và cần phải thực hiện trong toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh,từ điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, thiết kế sản phẩm, thiết kế quy trình đến theo dỏi, kiểm tra giám sát quá trình sản xuất và cung ứng,tiêu thụ sản phẩm của công ty. Quản lý chất lượng phải tiến hành ở mọi cấp bao gồm: + Quản lý chiến lược chất lượng. + Quản lý tác nghiệp chất lượng. + Lực lượng lao động và quản lí chất lượng. - Nhưng chi phí cho chất lượng sản phẩm trước kia được hiểu là toàn bộ những lãng phí đi kèm với phế phẩm phải bỏ đi và những chi phí có liên quan đến sửa chữa lại những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn. Ngày nay chi phí cho chất lượng kém là toàn bộ những chi phí có thể loại bỏ khi tất cả các vấn đề trong hệ thốngquản lí chất lượng được thực hiện tối ưu. Quản lý chất lượng bao gồm 4 nội dung cơ bản sau: - Hoạch định chất lượng: Là các hoạt động tập trung vào việc lập mục tiêu chất lượng và qui định các quá trình tác nghiệp cần thiết và các nguồn lực có liên quan để thực hiện các mục tiêu chất lượng. - Kiểm soát chất lượng : Là các hoạt động tập trung vào thực hiện các yêu cầu chất lượng . - Đảm bảo chất lượng : Là các hoạt động tập trung vào cung cấp lòng tin rằng các yêu cầu sẽ được thực hiện. - Cải tiến chất lượng: Là các hoạt động tập trung vào nâng cao khả năng thực hiện các yêu cầu. Ngoài ra khi thực hiện quản lí chất lượng các chuyên gia về chất lượng nói rằng cần nắm chắc các vấn đề sau: - Giai đoạn quản lí chất lượng đầu tiên là biết được nhu cầu của người tiêu dùng. - Giai đoạn quản lí chất lượng thứ hai là biết được người tiêu dùng sẽ mua gì? - Không thể quyết định chất lượng khi không biết chi phí - Cần phải đề phòng những khuyết tật và những lời than phiền có thể có. - Bao giờ cũng phải dự kiến trước những biện pháp cần thiết. Quản lí chất lượng mà không có những tác động điều chỉnh thì là những lời nói suông. - Tình trạng lí tưởng của quản lí chất lượng là khi quản lí là không còn cần kiểm soát ( kiểm soát). Quan niệm quản lí theo nghĩa rộng đã thực sự mở ra cuộc “cách mạng chất lượng” tạo nên sự nhảy vọt về trình độ chất lượng hàng hóa trên thị trường thế giới. Nó đã và đang tác động mạnh mẽ làm thay đổi một kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của các công ty và các tổ chức kinh tế khác. b. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm: b.1. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm: Suy cho cùng chất lượng sản phẩm chủ yếu dựa vào nhu cầu của khách hàng vì đây là yếu tố cơ bản để sản phẩm có thể tiêu thụ được. Do đó đảm bảo chất lượng có nghĩa có nghĩa là đảm bảo một mức chất lượng của sản phẩm cho phép, mà người tiêu dùng tin và sử dụng nó trong một thời gian cần thiết, hơn nữa sản phẩm đó phải thoả mãn hoàn toàn những yêu cầu của người tiêu dùng. Để tin được rằng mình đã lữa chọn đúng đắn, người tiêu dùng phải tín nhiệm một sản phẩm cụ thể của một cửa hàng cụ thể mà từ lâu đã chứng tỏ là một người cung cấp sản phẩm đáng tin cậy. Một sự tín nhiệm như vậy không nảy sinh ngay lập tức, ngưới sản xuất chỉ có thể đạt được điều đó bằng con đường hoạt động lâu dài về đảm bảo chất lượng, phải trên chục năm mới gây được sự tín nghiệm đó. Tất cả những ai quan hệ tới sản xuất nên nhớ điều đó. Khâu thứ hai trong chuỗi xích này là thoả mãn các yêu cầu của người tiêu dùng. Tất nhiên sản phẩm không được có khuyết tật hay hỏng hóc song chỉ điều đó thôi thì chưa đủ, phải cần đảm bảo chất lượng của bản thiết kế, bằng cách áp dụng mọi biện pháp để sản phẩm đáp ứng hoàn toàn, mục tiêu và chức năng của nó là chính mà điều người tiêu dùng mong đợi ở đó. Nói cách khác sản phẩm phải có chỉ tiêu chất lượng thực tế. Khi khách hàng tính sử dụng sản phẩm trong một thời gian dài thì điều kiện đầu tiên là bán được sản phẩm đó là tuổi thọ cần thiết. Tuy nhiên để hàng hóa bị hỏng bất ngờ thì phải tổ chức dịch vụ cung ứng linh hoạt các phụ tùng ở bất kỳ nơi nào. Điều kiện tối cần thiết là sự bảo dưỡng bổ sung phải có hiệu quả và thành thạo. Không nên ngừng cung cấp phụ tùng sau thời gian kể từ khi sản xuất sản phẩm. Để đảm bảo có hiệu quả chất lượng, lãnh đạo cấp trên phải xác định một chính sách đúng đắn bao trùm được những bộ phận sau đây: Nghiên cứu khoa học, kế hoạch, thiết kế, sản xuất, tiêu thụ và bảo dưỡng. Không thể có sự đảm bảo chất lượng hoàn toàn nếu thiếu sự tham gia của từng người, bao gồm tất cả các cán bộ của công ty, của những người sản xuất và những người bán buôn, vào qua trình đó. Sự đảm bảo chất lượng được tổ chức tốt, ở đó người ta làm theo khẩu hiệu: “đảm bảo chất lượng sản phẩm là sự nghiệp của chúng ta” . Đó là đảm bảo chất lượng sản phẩm, còn cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm là gì ? Chúng ta có thể hiểu nâng cao chất lượng là không ngừng đảm bảo chất lượng sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người tiêu dùng. Như vậy đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là hai mặt không thể tách rời nhau, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng có nghĩa là nâng cao chất lượng và ngược lại, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng bao hàm việc đảm bảo chất lượng, giữa chúng không thể có mặt giới hạn phân định rõ rệt. Với ý nghĩa đó đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp hiện nay. Vì đảm bảo chất lượng sản phẩm là nội dung quan trọng và là cơ sở của quản lí chất lượng sản phẩm tổng hợp. Thực chất của quản lí tổng hợp chất lượng là quản lí chất lượng và đảm bảo chất lượng khi nghiên cứu triển khai những dạng sản phẩm mới. b.2. Các nguyên tắc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà sản xuất chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng. Chất lượng sản phẩm của người đó phải thoả mãn những yêu cầu của khách hàng. Nếu sản phẩm là kết quả của sự hoạt động chung thì trách nhiệm về đảm bảo chất lượng thuộc về người cung cấp. Trong khuôn khổ một doanh ngiệp trách nhiệm về đảm bảo chất lượng thuộc về phòng thiết kế ( Mẫu) và bộ phận sản xuất chứ không thuộc phòng KCS. Phòng KCS chỉ kiểm tra sản phẩm theo quan điểm của người tiêu dùng và không chịu trách nhiệm về việc đảm bảo chất lượng. Việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm chỉ có hiệu quả khi tuân thủ các nguyên tắc sau đây: + Đảm bảo chất lượng dựa trên sự kiểm tra. + Đảm bảo chất lượng dựa trên sự quản lí quá trình sản xuất. + Đảm bảo chất lượng có chú ý đặc biệt tới việc nghiên cứu triến khai các dạng sản phẩm mới. b.2.1. Đảm bảo chất lượng dựa trên sự kiểm tra. Về mặt lịch sử, sự đảm bảo chất lượng sản phẩm đã bắt đầu từ việc tiến hành kiểm tra có hiệu quả. Trong thời kỳ tập trung chú ý vào kiểm tra thì phòng KCS làm công tác quản lí chất lượng. Nhưng đảm bảo chất lượng chỉ dựa trên sự kiểm tra thì chưa đầy đủ vì nó nảy sinh ra nhiều vấn đề. Nhà sản xuất, tức bộ phận sản xuất của hãng(chứ không phải phòng KCS) chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng. Trách nhiệm của phòng KCS là kiểm tra sản phẩm theo quan điểm của người tiêu dùng hay lãnh đạo doanh nghiệp. Đã có một sự đào tạo cần thiết, công nhân viên sản xuất tự quản lí quá trình công nghệ và tự kiểm tra sản phẩm trước khi chuyển nó sang giai đoạn tiếp theo của chu trình sản xuất. Điều đó tạo điều kiện đảm bảo chất lượng. Thế nhưng việc kiểm tra nảy sinh ra nhiều vấn đề: Thứ nhất là luồng thông tin ngược chiều, từ phòng KCS đến bộ phận sản xuất của doanh nghiệp phải mất nhiều thời gian và số liệu thu được phân loại theo các lô sẩn phẩm. Không bao giờ cũng dễ dàng sử dụng được nhưng số liệu đó trong sản xuất khi áp dụng nhưng biện pháp tạm thời hoặc khi ngăn ngừa các khuyết tật lặp lại. Thường thì số liệu đó là vô ích.Trái với điều đó, nếu một công nhân sản xuất chịu trách nhiệm về một sản phẩm cụ thể, thực hiện tự kiểm tra thì mối liên hệ tức thời và sự thực hiện linh hoạt tác động hiệu chính đều được đảm bảo. Cách tiếp cận đó cho phép giảm lượng sản phẩm khuyết tật đi rất nhiều. Thứ hai liên quan tới rất nhiều sẩn phẩm mà chất lượng sản phẩm không thể chỉ đảm bảo được nhờ kiểm tra chất lượng nhiều hàng hoá và vật liệu phức tạp, gốm những thành phần khác nhau, chỉ có thể biết được trong quá trình sử dụng. Khi doang nghiệp có xu hướng quản lý chất lượng tính theo tỷ lệ phần triệu, dựa trên sự tiến hành thử nghiệm phá huỷ, những thử nghiệm vận hành trong những điều kiện khó khăn, thì kiểm tra thường không kinh tế và không thể tự nó đảm bảo mức chất lượng cần thiết. Và cuối cùng, cần chú ý rằng việc phát hiện các khuyết tật nhờ kiểm tra thực ra không tạo đ
Tài liệu liên quan