Trong mấy chục năm trở lại đây nền kinh tế thế giới có bước phát triển vượt bậc. Trong đó có nền kinh tế Viện Nam, Việt Nam tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới từ 1986, có thể nói là hơi muộn, nhưng đó là giai đoạn đầy biến động của nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt là thập kỷ 90 của thế kỷ 20, kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng chưa từng có, trong 10 năm từ 1990 - 2000 trung bình tốc độ tăng trưởng là 7,5 %.
83 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược sản phẩm ở công ty Cơ Khí Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời núi đầu
Trong mấy chục năm trở lại đây nền kinh tế thế giới có bước phát triển vượt bậc. Trong đó có nền kinh tế Viện Nam, Việt Nam tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới từ 1986, có thể nói là hơi muộn, nhưng đó là giai đoạn đầy biến động của nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt là thập kỷ 90 của thế kỷ 20, kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng chưa từng có, trong 10 năm từ 1990 - 2000 trung bình tốc độ tăng trưởng là 7,5 %. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 300.000 nghìn/ tháng/ người. Nền kinh tế phát triển mọi mặt và điều đáng mừng lớn nhất là sự thích nghi và lớn mạnh của từng công ty. Các công ty tư nhân phát triển với số lượng lớn và ngày càng chiếm lĩnh những lĩnh vực hoạt động mà trước kia của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước dần lấy lại được sự tự chủ của mình về kế hoạch, sản xuất kinh doanh đã hoạt động theo nhu cầu thị trường, khai thác tốt tiềm lực tài chính của mình, tối đa hoá lợi nhuận. Chấm dứt thời kỳ thụ động, gò bó, kìm hãm, thua lỗ. Đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua.
Chiến lược sản phẩm là xu hướng khách quan một khuynh hướng phát triển đối với mọi doanh nghiệp .Nó là một nhân tố bảo đảm cho các doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với môi trường kinh doanh đầy biến động như hiện nay để tồn tại và phát triển.
Trước xu hướng toàn cầu hoá, trong vài năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn thử thách. Đặc biệt là cơ khí, bởi sự lạc hậu về công nghệ. Tuy vậy nhiều doanh nghiệp đã vươn lên bằng sức mạnh nội lực, đổi mới trang thiết bị, hợp tác cùng công ty nước ngoài duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm thu nhập cho người công nhân, công ty cơ khí Hà Nội là một doanh nghiệp như vậy. Đó là vì công ty luôn giữ hướng đi đúng " kết hợp phát triển chuyên môn hoá với đa dạng hoá sản phẩm ".
Sắp tới kinh tế Việt Nam gia nhập AFTA đó là cơ hội nhưng đồng thời là khó khăn thử thách. Để chuẩn bị cho diều này công ty đầu tư đổi mới trang thiết bị, tiếp tục nâng cao công tác hoạch định chiến lược sản phẩm thích ứng với những yêu cầu mới.
Qua quá trình học tập nghiên cứu tại trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội và được thực tập tốt nghiệp tại công ty Cơ Khí Hà Nội. Từ thực trạng công ty hiện nay em chọn đề tài " Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược sản phẩm ở công ty Cơ Khí Hà Nội " làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn có kết cấu 3 chương:
Chương I: Một số lý luận cơ bản chiến lược sản phẩm .
Chương II: Đánh giá thực trạng tình hình thực hiện chiến lược sản phẩm ở công ty Cơ Khí Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược sản phẩm ở công ty Cơ Khí Hà Nội.
Dù được sự tận tình giúp đỡ của thầy GS.TS Đỗ Hoàng Toàn giáo viên hướng dẫn và phòng tổ chức công ty Cơ Khí Hà Nội. Với kiến thức còn hạn hẹp nên không tránh khỏi thiếu sót, kính mong thầy và công ty bỏ qua cho em.
Chương I
Một số nội dung cơ bản chiến lược sản phẩm
I. khái niệm và các mô hình lựa chọn chiến lược sản phẩm
Khái niệm chung về chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Bất kể một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều thường hướng tới việc thực hiện ba loại mục tiêu cơ bản sau :
Mục tiêu lợi nhuận
Mục tiêu tạo được thế lực trên thị trường
Mục tiêu an toàn
Để thực hiện tốt ba mục tiêu này thì đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình được một chiến lược kinh doanh phù hợp. Chiến lược sản phẩm là một nội dung quan trọng của chiến lược kinh doanh, do vậy trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu những khái niệm chung nhất về chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm :
Hiện nay còn có khá nhiều khái niệm khác nhau về chiến lược kinh doanh. Nhưng chưa có khái niệm nào lột tả được đầy đủ bản chất của hoạt động này.
Cách tiếp cận phổ biến hiện nay xác nhận : chiến lược kinh doanh là tổng hợp các mục tiêu dài hạn, các chính sách và giải pháp lớn về sản xuất kinh doanh, về tài chính và về giải quyết nhân tố con người nhằm đưa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển lên một trang mới cao hơn về chất.
1.2 . Các đặc trưng của chiến lược kinh doanh :
Trong phạm vi chiến lược kinh doanh, các đặc trưng được quan niệm tương đối đồng nhất. Các đặc trưng cơ bản bao gồm :
Chiến lược xác định các mục tiêu và phương hướng phát triển của doanh nghiệp trong thời kì tương đối dài ( 3 – 5 năm )
Chiến lược kinh doanh chỉ phác thảo các phương hướng dài hạn có tính định hướng, còn trong thực hành kinh doanh phải thực hiện phương châm “ Kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế “
Mọi quyết định chiến lược quan trọng trong quá trình xây dựng, quyết định, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chiến lược đều phải tập trung vào người lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp
Chiến lược kinh doanh luôn được xây dựng, lựa chọn và thực thi dựa trên cơ sở các lợi thế so sánh của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải đánh giá đúng thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình khi xây dựng chiến lược.
Chiến lược kinh doanh trước hết và chủ yếu được xây dựng cho các ngành nghề kinh doanh, các lĩnh vực kinh doanh chuyên môn hoá, truyền thống, thế mạnh của doanh nghiệp. Điều đó đặt doanh nghiệp vào tình thế phải xây dựng chiến lược kinh doanh với những chuẩn bị chu đáo.
2. Khái niệm và vai trò của chiến lược sản phẩm
2.1. Khái niệm về chiến lược sản phẩm:
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về chiến lược sản phẩm, dưới đây chúng ta cung nghiên cứu một khái niệm điển hình nhất.
Chiến lược sản phẩm là phương thức kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở bảo đảm thoả mãn nhu cầu của thị trường và thị hiếu của khách hàng trong từng thời kì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2. Vai trò :
Chiến lược sản phẩm là xương sống của chiến lược kinh tế của doanh nghiệp. Trình độ sản xuất càng cao, cạnh tranh thị trường càng gay gắt thì vai trò của chiến lược sản phẩm càng trở nên quan trọng. Không có chiến lược sản phẩm thì chiến lược giá cả, chiến lược phân phối, chiến lược giao tiếp và khuyếch trương cũng không co lý do để tồn tại. Còn nếu chiến lược sản phẩm sai lầm, tức là đưa ra thị trường loại hàng hoá và dịch vụ không có nhu cầu hoặc rất ít nhu cầu thì giá cả có thấp đến đâu, quảng cáo hấp dẫn đến mức nào thì cũng không có ý nghĩa gì hết. Trên ý nghĩa đó mà xét, thì chiến lược sản phẩm không những chỉ bảo đảm cho sản xuất kinh doanh đúng hướng mà gắn bó chặt chẽ giữa các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, nhằm thực hiện các mục tiêu của chiến lược tổng quát.
3. Các mô hình lựa chọn chiến lược sản phẩm
3.1. Chiến lược sản phẩm chuyên môn hoá :
Trong nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp đều xác định phương hướng sản xuất kinh doanh trên cơ sở : “ Kết hợp chuyên môn hoá với đa dạng hoá sản xuất và kinh doanh tổng hợp “. Tuy vậy, để bảo đảm kinh doanh ổn định, xác lập chỗ đứng vững chắc trên thị trường, mọi doanh nghiệp đều phải xác định hướng sản phẩm chuyên môn hoá.
Trong lĩnh vực hoạt động đã xác định, chiến lược chuyên môn hoá có thể phát triển theo ba hướng để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường :
Chiến lược chi phối bằng chi phí. Đặc trưng của hướng chiến lược này là chi phí cá biệt trên một đơn vị sản phẩm thấp do tăng khối lượng sản xuất và do các ưu thế của chuyên môn hoá đưa lại
Chiến lược khác biệt hoá, nhằm theo hướng tạo và cung cấp một loại sản phẩm sản phẩm độc đáo cho thị trường.
Chiến lược chia nhỏ hay hội tụ, được thực hiện thông qua việc tập trung hoạt động của doanh nghiệp vào một phân đoạn đặc biệt của thị trường. Tính chất đặc biệt có thể biểu hiện ở : Nhóm khách hàng, vùng địa lý.....
3.2. Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm
Phát triển đa dạng hoá sản phẩm và lĩnh vực kinh doanh là một xu hướng tất yếu trong nền kinh tế thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng biến động nhanh chóng theo hướng đa dạng hơn, phong phú hơn. Tuy vậy, đa dạng hoá sản phẩm theo hướng nào và mức độ nào thì cần tính toán cân nhắc
Hướng sản phẩm hoặc ngành hàng chuyên môn hoá của doanh nghiệp
Khả năng của doanh nghiệp
Xu hướng biến động và các thách thức của môi trường kinh doanh
Sức ép cạnh tranh trong nội bộ ngành
Trên thực tế có hai hình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm đã được đúc kết
Đa dạng hoá đồng tâm, phát triển đa dạng hoá sản phẩm trên nền của sản phẩm chuyên môn hoá
Đa dạng hoá kết khối hay tổ hợp, phát triển đa dạng các hoạt động kinh doanh có các đặc điểm kinh tế kĩ thuật khác nhau.
3.3. Chiến lược liên kết sản phẩm :
Liên kết là hoạt động bao quát nhiều mặt hoạt động trong pham vi mô hinh chiến lược này chỉ xem xét hoạt động liên kết phát triển sản phẩm. Trong phạm vi nghiên cứu, chiến lược liên kết có thể phát triển theo hai hướng :
Liên kết về phía thượng lưu nhằm khác biệt hoá các nguồn cung ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh
Liên kết về phía hạ lưu nhằm khác biệt hoá các sản phẩm từ một hoặc một vài loại nguyên liệu chính ban đầu. Về thực chất đó là hướng phát triển đa dạng hoá sản phẩm từ nguyên liệu gốc ban đầu.
3.4. Chiến lược sản phẩm kết hợp :
Trong thực tế, để tận dụng các cơ hội kinh doanh, tránh các rủi ro và bất lợi trên thị trường đồng thời khai thác triệt để các khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp , đòi hỏi doanh nghiệp phải áp dụng mô hình chiến lược kết hợp. Nói cách khác, phải khai thác các ưu thế và tránh các rủi ro trong các mô hình chiến lược trên bằng cách tìm một mô hình phối hợp giữa chúng.
II. Phân loại chiến lược sản phẩm :
Chiến lược sản phẩm có thể được phân loại theo nhiều hướng khác nhau :
1. Căn cứ vào bản thân sản phẩm, chiến lược sản phẩm được chia làm sáu loại
Chiến lược thiết lập chủng loại : Là bảo đảm giữ cho được vị trí vốn có của sản phẩm trên thị trường bằng việc bảo vệ uy tín mà doanh nghiệp đã đạt được.
Chiến lược hạn chế chủng loại : Là chiến lược đơn giản hoá kết cấu chủng loại, loại trừ một số sản phẩm không hiệu quả, tập trung phát triển một số sản phẩm có triển vọng.
Chiến lược biến đổi chủng loại : Là chiến lược tiếp tục thay đổi thể thức thoả mãn yêu cầu nhằm nâng cao số lượng khách hàng.
Chiến lược tách biệt chủng loại : Là chiến lược tách các sản phẩm đa dạng sản xuất của doanh nghiệp với các sản phẩm tương tự hay gần giống nhau hiện có trên thị trường, giữ lại một số tính chất nhất là tính thẩm mỹ trong suốt vòng quay của hàng hoá.
Chiến lược hoàn thiện sản phẩm : Là chiến lược định kỳ cải tiến các thông số chất lượng của sản phẩm.
Chiến lược đổi mới chủng loại : Là chiến lược phát triển sản phẩm mới.
2. Căn cứ vào sản phẩm có kết hợp với thị trường tiêu thụ, người ta chia chiến lược sản phẩm thành :
Chiến lược sản phẩm hiện có trên thị trường hiện có : Chiến lược này thường áp dụng trong giai đoạn đầu của hoạt động kĩnh doanh của những doanh nghiệp mới thành lập. Nhà kinh doanh bắt đầu từ một sản phẩm, sau đó phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình theo ba phương thức :
+ Khuyến khích các khách hàng đã có của mình tiêu thụ sản phẩm thường xuyên hơn
+ Phát triển thêm khách hàng trong cùng một thị trường để tăng thêm mức tiêu thụ sản phẩm
+ Kích động khách hàng để tăng thêm mức tiêu thụ sản phẩm
Chiến lược sản phẩm hiện có trên thị trường mới : Chiến lược này nhằm mở rộng thị trường bằng cách đưa sản phẩm hiện có vào thị trường mới để tăng mức tiêu thụ
Chiến lược sản phẩm biến cải trên thị trường hiện có : Trong chiến lược này, sản phẩm hiện có có thể được thay thế một phần hoặc hoàn toàn trong tập hợp sản phẩm của doanh nghiệp vì khách hàng bao giờ cũng muốn mua sản phẩm mới hoặc cải tiến tốt hơn, đẹp hơn.....
Chiến lược sản phẩm biến cải trên thị trường mới : Chiến lược này dùng sản phẩm biến cải tạo ra thị trường mới.
Chiến lược sản phẩm mới trên thị trường hiện có : Chiến lược này được áp dụng khi đưa ra một sản phẩm mới nhằm đa dạng hoá sản phẩm hoặc thay thế sản phẩm cũ mà vòng đời sản phẩm đã hết.
Chiến lược sản phẩm mới trên thị trường mới : Chiến lược này được áp dụng khi doanh nghiệp đưa ra một loại sản phẩm chưa có trên thị trường nhằm mục đích mở rộng thị trường tạo nhu cầu mới.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến chiến lược sản phẩm
Trong việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh vấn đề định hướng chiến lược sản phẩm có vai trò quan trọng. Do đó doanh nghiệp cần có hiểu biết chính xác về các vấn đề liên quan tới chiến lược sản phẩm để từ đó có quyết định chính xác. Thường có những nhân tố ảnh hưởng tới chiến lược sản phẩm :
1. Nhu cầu của thị trường
Trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp phải bám sát nhu cầu của thị trường, sản xuất và đưa ra thị trường những sản phẩm phù hợp. Công việc này cần có phòng ban riêng biệt đó là phòng Marketing, họ sẽ điều tra nghiên cứu và dự báo nhu cầu thị trường trước khi kinh doanh. Tuỳ theo hướng phát triển của doanh nghiệp ở từng thời kỳ mà doanh nghiệp sẽ có những tiêu thức khác nhau để xác định chiến lược sản phẩm cần tập trung vào.
0Kiểu cách mẫu mã, kích cỡ mỗi loại sản phẩm mà thị trường đòi hỏi. Việc phân tích nhu cầu thị trường co vai trò đặc biệt quan trọng giúp địng ra những căn cứ để ra quyết định sản xuất hay không? và sản xuất như thế nào?
0Nhu cầu các loại sản phẩm có liên quan đến người tiêu dùng, nghĩa là nghiên cứu bề rộng của nhu cầu sản phẩm. Để xác định chiến lược sản phẩm cần phải xem xét điều kiện để sản xuất sản phẩm đó, tính phức tạp, công nghệ...
0Các sản phẩm thay thế. Vấn đề này rất quan trọng nó giúp cho doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong chiến lược sản phẩm
0Sự vận động của sản phẩm trong chu kỳ sống của nó. Cần lựa chọn thời điểm tốt cho việc hoạch định chiến lược sản phẩm tránh chu kỳ suy thoái để giảm rủi ro. Mặt khác doanh nghiệp khi tiến hành chiến lược sản phẩm cần xác định quy mô tổng lượng nhu cầu thị trường về mỗi loại sản phẩm. Sau đây chúng ta cỏ thể tính tương đối về nhu cầu sản phẩm với thị trường của doanh nghiệp.
Tóm lại việc nghiên cứu, phân tích sự ảnh hưởng của nhân tố chủng loại và dung lượng nhu cầu sản phẩm trên thị trường giúp cho doanh nghiệp có quyết định chính xác về phương hướng và mức độ chiến lược sản phẩm không chỉ ở mặt lượng mà còn ở cả tính chất, nhu cầu và quan hệ với sản phẩm khác.
2. Khả năng của mỗi doanh nghiệp.
Nhu cầu của thị trường về các loại sản phẩm vật chất và dịch vụ rất đa dạng và thường xuyên vận động. Chính điều đó tạo nên các cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp cần năng động và nhạy bén nắm bắt các cơ hội kinh doanh, phản ánh chúng trong cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ. Trong quá trình ấy phải ddanhs giá đúng khả năng hiện có và có thể có của doanh nghiệp. Việc phân tích khả năng của doanh nghiệp được thực hiện theo nhiều góc độ khác nhau như: tài lực, vật lực. Trong môi trường cạnh tranh, việc phát triển chuyên môn hoá và đa dạng hoá sản phẩm cần đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty. Nghĩa là xuất phát từ những nhu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả... Bỏ qua điều này sẽ khó tránh khỏi trong sự tồn tại và phát triển.
3. Các quan hệ kinh tế
Việc mở rộng các quan hệ liên kết kinh tế giữa chủ thể kinh tế là một xu thế khách quan. Việc tham gia các liên kết kinh tế tác động trực tiếp tới việc xác định phương hướng và nội dung thực hiện chuyên môn hoá và đa dạng hoá sản phẩm. Điều đó thể hiện trên các mặt sau:
- Quy định trực tiếp khả năng ứng dụng một số hình thức chuyên môn hoá và đa dạng hoá sản phẩm. Ví dụ doanh nghiệp không thể áp dụng hình thức chuyên môn hoá, đa dạng hoá theo giai đoạn công nghệ hay theo bộ phận chi tiết sản phẩm, nếu không tổ chức tốt các hình thức hiệp tác hoá sản xuất thích đáng.
- Tạo điều kiện tăng khả năng của doanh nghiệp qua việc tranh thủ sự hỗ trợ của bên ngoài. Việc tăng khả năng này thể hiện không những chỉ là khắc phục khâu yếu trên dây chuyền sản xuất, mà còn là sự hỗ trợ nhau về vốn, về năng lực nghiên cứu...để nắm bắt các cơ hội kinh doanh.
- Tạo thành một tổ chức để thực hiện sự phân công sản xuất giữa các doanh nghiệp khắc phục tình trạng trùng lắp kém hiệu quả trong sản xuất, phát huy khả năng sở trường của doanh nghiệp.
4. Trình độ tiêu chuẩn hoá
Nhân tố mang tính chất tổ chức- kỹ thuật này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển tổ chức sản xuất kinh doanh khi xây dựng nền sản xuất lớn trong công nghiệp. Nó đòi hỏi tất cả các sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất và đưa ra thị trường phải theo tiêu chuẩn thống nhất. Tiêu chuẩn này không những chỉ là cơ sở để Nhà nước thực hiện việc kiểm tra giám sát mà còn là cơ sở để tổ chức mối liên hệ sản xuất của các doanh nghiệp có liên quan. Chẳng hạn, quan hệ giữa các doanh nghiệp chuyên môn hoá bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ.
5. Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm - kỹ thuật của đội ngũ lao động
Sản xuất là sự kết hợp của nhiều yếu tố trong đó ba yếu tố cơ bản là: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó vấn đề lao động là yếu tố quan trọng nhất, nó ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ, kinh nghiệm của người lao động có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, tới chất lượng sản phẩm, tới hoạt động của máy móc. Trình độ lao động tốt là cơ sở đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành tốt, liên tục là cơ sở nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Trình độ chuyên môn kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả công tác đa dạng hoá. Để phát huy tối đa trình độ chuyên môn, kỹ thuật của người lao động thì quá trình sử dụng và bố trí lao động cần quan tâm:
+ Phân công và bố trí lao động cần đáp ứng và tuân thủ yêu cầu về năng lực và nguyện vọng của từng người.
+ Đảm bảo về trách nhiệm và quyền hạn.
+ Đảm bảo có sự thăng tiến.
+ Trong sử dụng lao động phải đi đôi với việc đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho họ để có thể đáp ứng nhu cầu mới của công việc.
Do vậy vấn đề lao động là đặc biệt quan trọng, không chỉ là vấn đề công ăn việc cho mọi người, không chỉ là vấn đề công việc thông thường mà nó đòi hỏi có sự nghiên cứu có được một quyết định sáng suốt về người lao động làm sao cho họ phát huy được mọi khả năng, nâng cao hiệu quả lao động
6. Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ và khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp
Muốn thực hiện chiến lược sản phẩm cần khoa học công nghệ hiện đại. Ngày nay tiến bộ nhanh của khoa học công nghệ, công nghệ mới ra đời rất nhanh, nguyên nhiên vật liệu cũng rất đa dạng từ tự nhiên và nhân tạo. Máy móc thiết bị có một vai trò quan trọng trong các doanh nghiệp công nghiệp. Máy thiết bị không chỉ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp mà còn quyết định điều kiện và khả năng sản xuất kinh doanh. Việc phát huy tối đa hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị là nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp có chỗ đứng chắc trên thị trường và sức mạnh cạnh tranh. Sử dụng máy móc một cách có hiệu quả, giúp cho doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Không những vậy, khia thác tốt công suất máy móc còn mang lại năng suất cao và giảm chi phí, giá thành, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Như vậy dưới sự tác động của tiến bô khoa học công nghệ cơ cấu ngành phong phú, đa dạng phức tạp hơn, các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao sẽ phát triển nhanh hơn so với các ngành truyền thống hao tổn nhiều nguyên liệu, năng lượng. Tiến bộ khoa học cùng với khả năng đổi mới công nghệ của doanh nghiệp sẽ cho phép nâng cao chất lượng của sản phẩm, tạo ra sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu nhờ đó làm tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
7. Tính chất nguyên liệu đưa vào sản xuất.
Một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất đó là nguyên nhiên vật liệu đầu vào của các quá trình sản xuất của mỗi doanh nghiệp. Chúng còn được gọi là đối tượng lao động một trong ba yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất.
Trong quá trình sản xuất con người sử dụng tư liệu lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hoá của đối tượng lao động nhằm tạo ra những sản phẩm công nghiệp có chất lượng ngày càng cao thoả mãn ngày càng đầy