Chuyển sang kinh tế thị trường, dưới đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, kinh tế Việt Nam như được tiếp thêm một luồng sinh khí mới phát triển mạnh mẽ với sự hoạt động đa dạng của nhiều thành phần kinh tế. Khu vực KTNQD như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài, trỗi dậy phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế. Đóng góp hơn 60% vào GDP, 50% cho NSNN và thu hút trên 50% lao động xã hội những con số ấy cũng phần nào nói lên sự trưởng thành và vai trò quan trọng của khu vực kinh tế ấy trong nền kinh tế đất nước.
Cơ chế thị trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần KTNQD được phát triển năng động và tự chủ nhưng đồng thời nó cũng đặt KTNQD trước thử thách khắc nghiệt của quy luật cạnh tranh. Để đứng vững trong cạnh tranh, để phát huy hơn nữa khả năng của mình KTNQD đang rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về nhiều mặt, đặc biệt là về vốn. Và ngân hàng là kênh dẫn vốn chủ yếu, là cứu cánh quan trọng cho sự tồn tại phát triển của KTNQD.
56 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm mở rộng cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương thành phố Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Chuyển sang kinh tế thị trường, dưới đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, kinh tế Việt Nam như được tiếp thêm một luồng sinh khí mới phát triển mạnh mẽ với sự hoạt động đa dạng của nhiều thành phần kinh tế. Khu vực KTNQD như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài, trỗi dậy phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế. Đóng góp hơn 60% vào GDP, 50% cho NSNN và thu hút trên 50% lao động xã hội những con số ấy cũng phần nào nói lên sự trưởng thành và vai trò quan trọng của khu vực kinh tế ấy trong nền kinh tế đất nước.
Cơ chế thị trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần KTNQD được phát triển năng động và tự chủ nhưng đồng thời nó cũng đặt KTNQD trước thử thách khắc nghiệt của quy luật cạnh tranh. Để đứng vững trong cạnh tranh, để phát huy hơn nữa khả năng của mình KTNQD đang rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về nhiều mặt, đặc biệt là về vốn. Và ngân hàng là kênh dẫn vốn chủ yếu, là cứu cánh quan trọng cho sự tồn tại phát triển của KTNQD.
Là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ NHTM luôn quan tâm đến nhu cầu vay vốn của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Và KTNQD là một thị trường tín dụng đầy tiềm năng của Ngân hàng. Họ cần có nhau và phụ thuộc lẫn nhau trong nền kinh tế. Việc mở rộng cho vay KTNQD mang một ý nghĩa thiết thực cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng đồng thời thúc đẩy KTNQD phát triển.
Hiện nay, công tác cho vay KTNQD của NHCT TP Nam Định còn gặp một số khó khăn tồn tại nhất định. Xuất phát từ thực tế đó, sau một thời gian thực tập tại NHCT TP Nam Định em đã nghiên cứu đề tài: "Một số giải pháp nhằm mở rộng cho vay KTNQD tại NHCT TP Nam Định".
Nội dung của đề tài được bố cục như sau:
CHƯƠNG I: TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KTNQD.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHO VAY KTNQD TẠI NHCT TP NAM ĐỊNH.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG CÔNG TÁC CHO VAY KTNQD TẠI NHCT TP NAM ĐỊNH.
Do thời gian nghiên cứu học hỏi không nhiều, hiểu biết thực tế còn hạn chế, nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong được sự quan tâm chỉ bảo của các thầy cô giáo, và các cô chú, anh chị trong Ngân hàng để bài viết được hoàn thiện hơn.
Chuyên đề được hoàn thành với sự giúp đỡ của TS. Trương Quốc Cường. Giáo viên Khoa Nghiệp vụ Kinh doanh Ngân Hàng, các anh chị phòng kinh doanh nơi em đã thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I
TDNH ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KTNQD
1.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ KTNQD (KTNQD) TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Quan điểm phát triển KTNQD
Lý luận cũng như thực tế đã chứng minh không có một quốc gia nào muốn phát triển toàn diện và bền vững mà lại duy trì đơn nhất một thành phần kinh tế.
Trên thế giới các quốc gia hùng mạnh và giàu có đều đã hình thành tồn tại và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mà trong đó thành phần KTNQD luôn giữ vai trò đặc biệt không thể phủ nhận. Vậy ở Việt Nam đất nước chúng ta, đã có sự nhìn nhận như thế nào về KTNQD? KTNQD ở nước ta đã có những bước phát triển ra sao?
Lịch sử phát triển KTNQD ở nước ta cũng đã có những thăng trầm, trước đây trong cơ chế quản lý KTNQD hoá tập trung, do sự nhận thức thô cứng và sai lệch về CNXH, do cơ chế quản lý kế hoạch tập trung, theo mệnh lệnh KTNQD ở nước ta đã không có điều kiện để phát triển. Thời đó KTNQD chủ yếu là hình thức kinh tế tập thể hợp tác xã nhưng thực chất cũng là sự biến động của KTQD. Trong khi đó loại hình kinh tế tư nhân, có thể về cơ bản không được phép tồn tại. Kinh tế tư nhân bị coi là kẻ thù của CNXH, sản xuất phải lén lút bị trói buộc kìm hãm và bị KTQD tập thể chèn ép. Xuất phát từ cách nhìn nhận trên trong suốt một thời gian dài KTNQD ở nước ta đã không có môi trường để tồn tại "bình yên" và không có cơ hội để phát triển phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế.
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế đã tạo môi trường thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ, đa dạng, phong phú và sôi nổi. Hoà chung với không khí đổi mới náo nức ở mọi nơi trên đất nước, KTNQD như bình tỉnh sau một giấc ngủ dài và đã thực sự trỗi dậy phát triển nhộp nhịp và đa dạng. Cơ chế thị trường với bộ máy sàng lọc bình đẳng nhất cho tất cả các thành viên tham gia, đã tạo môi trường thuận lợi cho KTNQD phát huy tính tự chủ năng động và sáng tạo, từng bước khẳng định vị trí và sự đóng góp quan trọng của mình vào sự chuyển mình của đất nước.
KTNQD ở nước ta có thể phân thành 2 bộ phận chính:
* Kinh tế tập thể:
Vì bản chất kinh tế tập thể là hình thức liên kết liên doanh giữa các chủ thể kinh tế trong cộng đồng có tính chất xã hội xuất phát từ lợi ích nhu cầu về kinh tế trong hình thái liên đới đó.
Hiện nay ở nước ta đang tồn tại các hình thức kinh tế tập thể như: trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh, hợp tác xã, tổ sản xuất và các hội nhóm cùng với sự khởi sắc của nền kinh tế đất nước, ngày nay các loại hình kinh tế tập thể đã ngày càng phát triển cả về mặt số lượng và mặt chất lượng.
* Kinh tế tư nhân và cá thể:
Đã có một thời kinh tế tư nhân cá thể bị kìm hãm, bị trói buộc. Bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế tư nhân cá thể bùng nổ, hoạt động mạnh mẽ và đa dạng. Thành phần kinh tế tư nhân và cá thể hiện nay đang tồn tại dưới dạng doanh nghiệp tư nhân, các hộ sản xuất, hộ kinh doanh. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay với một thị trường tiêu thụ rộng lớn trong dân cư, với một cơ cấu ngành mà hoạt động thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao so với sản xuất hàng hoá do đó hoạt động kinh tế chủ yếu của thành phần kinh tế tư nhân, cá thể là kinh doanh buôn bán, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp, còn bộ phận sản xuất công nghiệp còn tương đối khiêm tốn.
Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối đổi mới đúng đắn, kịp thời KTNQD đã có chỗ đứng bình đẳng, đã và đang phát huy thế mạnh của mình góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh, giàu mạnh.
1.1.2. Đặc điểm của các thành phần KTNQD
Mỗi thành phần kinh tế có những đặc điểm khác nhau tạo nên sự đa dạng trong một chỉnh thể thống nhất đó là nền kinh tế quốc dân cũng có những đặc điểm rất riêng và phức tạp, tạo nên một "gương mặt" rất ấn tượng mà việc tìm hiểu nó nắm bắt được để tạo điều kiện cho nó phát huy thế mạnh của mình là điều rất cần thiết. Vậy những đặc điểm nào giúp chúng ta nhận biết được cái nét riêng có ấy của KTNQD.
Thứ nhất: Thành phần KTNQD có tính tư hữu cao. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này trực tiếp gắn liền với quyền lợi, lợi ích của cá nhân, của người sản xuất. Do vậy mà họ luôn tập trung tối đa sức lực, trí tuệ, tài sản để có thể tồn tại, để đứng vững trong cạnh tranh và để đạt lợi nhuận cao nhất.
Thứ hai: KTNQD cũng được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, tuy nhiên để thực sự đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường thì KTNQD phải "tự thân vận động" rất nhiều. Để đạt mục tiêu cuối cùng là tìm kiếm lợi nhuận, các thành phần KTNQD đã đi rất nhiều con đường bằng rất nhiều phương tiện khác nhau do đó đã có những lúc, những nơi có những phương án kinh doanh, những cách làm ăn rất táo bạo, mạo hiểm. Do vậy việc uốn nắn kịp thời để thành phần kinh tế này đi đúng hướng là điều rất quan trọng và cần thiết.
Thứ ba: Ở nước ta, các thành phần KTNQD hầu hết là các đơn vị trẻ với bộ máy sản xuất kinh doanh năng động, gọn nhẹ, ngành nghề kinh doanh phong phú, đã tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này nhanh chóng được tiếp cận với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Do đó KTNQD đã trở thành một kênh trung gian trong quá trình chuyển giao công nghệ của nước ngoài vào Việt Nam. Do vậy để đưa nền kinh tế nước ta dần bắt nhịp với sự phát triển của kinh tế thế giới thì rất cần sự đóng góp của khu vực KTNQD.
Thứ tư: Quy mô sản xuất của các thành phần KTNQD thường nhỏ bé nên nó rất dễ dàng thích ứng với sự biến động không ngừng của nhu cầu thị trường và cơ chế chính sách của Nhà nước.
Thứ năm: Với một thị trường lao động rộng lớn và giá nhân công rẻ, khu vực KTNQD rất dễ dàng tận dụng được kinh nghiệm làm ăn, truyền thống sản xuất của người lao động.
KTNQD là như thế đó: năng động, sáng tạo, trẻ trung, linh hoạt, nhạy cảm thậm chí táo bạo và mạo hiểm. KTNQD luôn có một cái gì đó thật mới mẻ, không dập khuôn, những đặc điểm ấy là cơ sở để khẳng định vai trò không thể thiếu được của KTNQD đối với nền kinh tế đất nước và để có cái nhìn toàn diện hơn đối với KTNQD chúng hãy cùng tìm hiểu vai trò của KTNQD trong nền kinh tế.
1.1.3. Vai trò của KTNQD
Thời bao cấp, vai trò của KTNQD thật mờ nhạt. Chuyển sang kinh tế thị trường với đường lối đổi mới đúng đắn, kịp thời đã tạo điều kiện thuận lợi cho KTNQD phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, hiệu quả. Hiện nay số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này chiếm khoảng 70% số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cả nước, đặc biệt nó đóng góp khoảng 60% trong tổng số GDP, khoảng 40% vào ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 50% lao động xã hội. Có thể khẳng định sự tồn tại của khu vực KTNQD là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế và phù hợp với nhu cầu của con người. Vai trò không thể thiếu được KTNQD được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Một là: KTNQD góp phần tập trung vốn của xã hội để tạo cơ sở vật chất ban đầu cho nền kinh tế chuyển từ kinh tế tư nhân sang kinh tế hàng hoá, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Nền kinh tế nước ta khởi đầu là nền kinh tế nông nghiệp nhỏ bé, lạc hậu, cơ sở vật chất ban đầu rất nghèo nàn. Muốn đổi mới và phát triển toàn diện thì cần phải có vốn. Để phát triển một cách chắc chắn và tự chủ thì nguồn vốn trong nước luôn luôn giữ vai trò quyết định. Do vậy việc khơi tăng nguồn vốn trong nước luôn cần thiết và quan trọng. Trong thời kỳ bao cấp do cơ chế chính sách bó buộc, kìm hãm nên việc đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cá thể và HTX nhìn chung rất nhỏ bé chuyển sang cơ chế thị trường, KTNQD được khuyến khích phát triển, quy mô đầu tư của khu vực này đã tăng mạnh, góp phần tăng nguồn vốn cho đầu tư, phát triển của nền kinh tế đất nước. Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như hiện nay thì việc đầu tư mở rộng sản xuất cũng như đối với trang thiết bị, quy trình sản xuất kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các đơn vị kinh doanh nói chung và với đơn vị ngoài quốc doanh nói riêng. Thông qua các hoạt động tích tụ tập trung vốn, tái đầu tư vào sản xuất, KTNQD đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo điều kiện thực hiện phân công lao động xã hội.
Hai là: KTNQD giải phóng mọi năng lực sản xuất và là đối tác cạnh tranh của các thành phần KTNQD giúp cho sự phát triển của nền kinh tế ngày càng sôi động.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh kinh tế luôn tập trung cao độ tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng cả về trí lực và vật lực để đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất. Vì hiệu quả hoạt động của khu vực này luôn gắn liền với quyền lợi của chính bản thân người sản xuất. Chính tính tư hữu cao đó mà khu vực KTNQD luôn năng động, sáng tạo, linh hoạt trong sản xuất tìm kiếm bạn hàng mới, tìm hướng sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường luôn tìm cách đưa ra sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá thành hợp lý.
Tất cả những điều đó đã giúp cho KTNQD luôn giữ được thế chủ động, sáng tạo, phát huy được mọi tiềm năng của mình, giải phóng mọi năng lực sản xuất sẵn có để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận ngày càng tăng. Mặt khác cơ chế thị trường đã tạo nên một sân chơi bình đẳng, một môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp cho các thành phần kinh tế hoạt động ngày càng hiệu quả. KTNQD không còn giữ vai trò độc quyền như thời kỳ bao cấp. Do vậy nếu các doanh nghiệp quốc doanh không năng động, mạnh dạn đổi mới cơ chế quản lý thì sẽ bị cơ chế thị trường đào thải. Do đó KTNQD trở thành một đối thủ cạnh tranh của khu vực KTQD trên trường đua của nền kinh tế thị trường. Chính yếu tố cạnh tranh lành mạnh đó đã làm cho nền kinh tế thực sự sôi động và lợi ích của người tiêu dùng của toàn xã hội được quan tâm nhiều hơn.
Ba là: KTNQD đã và đang đóng góp cho nền kinh tế một khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn đa dạng, phong phú, chất lượng cao, tạo quỹ tiêu dùng, xuất khẩu. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, KTNQD đã và đang có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. KTNQD có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, giao thông vận tải. Sự phát triển của lực lượng vận tải ngoài quốc doanh trong những năm gần đây đã góp phần thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các vùng một cách thuận lợi. Đặc biệt trong lĩnh vực thương nghiệp, dịch vụ thì khu vực KTNQD có sự đóng góp quan trọng (khoảng 90%) và đã làm cho tổng giá trị sản phẩm trong nước của khu vực này tăng liên tục qua các thời kỳ. Trong những năm qua KTNQD không chỉ đáp ứng ngày một nhiều hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước, góp phần tạo thế cân đối quỹ hàng hoá trong các địa phương trong cả nước mà còn là nguồn lực chính tạo ra sản phẩm xuất khẩu tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu ở nước ta chiếm tỷ trọng khá cao trong GDP với chiến lược từ nay đến năm 2010 dự báo kim ngạch xuất khẩu còn tăng nữa nhưng trước mặt để đẩy mạnh xuất khẩu chúng ta vẫn cần thiết khai thác mọi tiềm năng về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tài nguyên khoáng sản, dịch vụ mà chủ thể quan trọng nhất để thực hiện quá trình này là các thành phần KTNQD. Trong nền kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam hiện nay sự phát triển của khu vực KTNQD có vai trò quan trọng góp phần dẫn đến sự thành công của chiến lược kinh tế.
Bốn là: KTNQD tăng cường nguồn thu cho NSNN.
Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người không ngừng tăng lên cả về mặt lượng và chất lượng. Mà mục đích cuối cùng của nền kinh tế là thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu con người phục vụ cho lợi ích của con người. Do vậy khi nhu cầu của con người tăng lên thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều được mở mang và phát triển và khi đó khả năng đóng góp cho NSNN của các thành phần kinh tế trong đó có KTNQD ngày một tăng lên. Hiện nay khu vực KTNQD đóng góp khoảng 40% vào nguồn thu NSNN. Từ đó góp phần giảm bớt sự mất cân đối trong thu chi NSNN, tạo điều kiện cho Nhà nước tái đầu tư vào sản xuất và tạo điều kiện cho các công trình phúc lợi, nâng cao đời sống của các tầng lớp dân cư, phát huy vai trò quản lý vĩ mô của mình trong nền kinh tế thị trường. Đúng như một bài báo đã viết, sự phát triển của KTNQD không chỉ góp phần làm tăng thu nhập cho Chính phủ mà còn làm giảm gánh nặng ngân sách dùng tài trợ của các doanh nghiệp Nhà nước và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này.
Năm là: KTNQD đã và đang giải quyết một vấn đề nan giải đó là các vấn đề công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Là một nước có dân số trẻ, Việt Nam có một thị trường lao động rộng lớn, mỗi năm có khoảng 1,5 triệu người đến tuổi lao động vẫn chưa có việc làm, đó là chưa kể đến số người dôi ra trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước do quyết định tinh giảm biên chế của Chính phủ. Với sự phát triển không ngừng của khu vực KTNQD đã giải quyết một lực lượng lao động rất lớn cho xã hội này thu hút hơn 50% lao động toàn xã hội thông qua việc đa dạng hoá các ngành nghề kinh doanh, KTNQD đã góp phần tổ chức lại cơ cấu lao động nâng cao hiệu quả lao động cho toàn xã hội đồng thời góp phần quan trọng trong việc giảm bớt các tệ nạn xã hội phát sinh do "nhàn cư vi bất thiện".
Sáu là: KTNQD trở thành một thị trường vốn tín dụng rộng lớn và đầy tiềm năng cho sự phát triển ngành ngân hàng.
KTNQD ngày càng phát triển thì nhu cầu về vốn ngày một gia tăng. KTNQD trở thành một môi trường thuận lợi cho ngân hàng phát triển các nghiệp vụ tín dụng, các hoạt động dịch vụ của mình. KTNQD là một lĩnh vực kinh tế rộng lớn, quan trọng trong thể thống nhất của nền kinh tế. Nó trở thành một thị trường đầy tiềm năng cần được quan tâm khai thác của ngành ngân hàng vì theo dự đoán của các nhà kinh tế nước ngoài vào Việt Nam, nếu tốc độ tăng của khu vực KTNQD nhanh hơn tốc độ tăng KTQD bình quân 1% năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩm nước ta trong 15 đến 20 năm tới sẽ như sau:
KTQD chiếm 10%
KTNQD chiếm 90%.
Vậy đó, KTNQD đã có vai trò quan trọng và sự đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Vấn đề đặt ra là làm như thế nào để kinh tế phát huy được thế mạnh của mình, để ngày càng khẳng định vị trí vai trò không thể thiếu được của mình trong nền kinh tế. Để đạt được điều đó KTNQD rất cần một cái nhìn bình đẳng, không phân biệt KTQD - KTNQD, cần thái độ thiện chí, tin tưởng của những nhà đầu tư, của những người tiêu dùng và đặc biệt KTNQD rất cần có sự khuyến khích hỗ trợ của nhà nước về nhiều mặt như: cơ chế chính sách, thuế, công nghệ nhất là về vốn. Lý luận cũng như thực tế đã cho thấy TDNH đã có ý nghĩa to lớn biết chừng nào đối với sự phát triển kinh tế.
1.2. NHTM VÀ VAI TRÒ CỦA TDNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KTNQD
1.2.1. Vài nét về NHTM
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Để có thể nhìn nhận về hoạt động của NHTM một cách đơn giản nhất, chúng ta hãy đặt mình vào vị trí một khách hàng của NHTM.Khi bạn có một khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, bạn có muốn nó "sinh sôi nảy nở" không, bạn hãy mang đến gửi ở NHTM! Bạn không muốn phải mang theo một bao tiền để đi trả tiền hàng ở một tỉnh xa phải không? Được thôi, bạn hãy gửi tiền vào một tài khoản ở NHTM và NHTM sẽ giúp bạn thanh toán một cách nhanh chóng và đơn giản. Còn nữa, bạn đang có một phương án sản xuất kinh doanh rất khả thi, bạn đang nóng lòng muốn thực hiện nó nhưng mà bạn đã dốc hết vốn liếng mà vẫn chưa đủ, phải làm sao đây? Bạn thì rất sợ đi vay nặng lãi, bố mẹ, người thân và bạn bè cũng không có khả năng giúp đỡ bạn. Bạn hãy đến NHTM ngay đi, ở đó người ta không chỉ cho bạn vay tiền mà còn tư vấn cho bạn nữa đấy. Vậy đó, bạn có thấy là NHTM có rất nhiều hoạt động không? Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản là huy động vốn cho vay đầu tư, NHTM còn thực hiện một số hoạt động khác như: thanh toán, bảo hành, tư vấn... những hoạt động đó là sự thể hiện cụ thể chức năng của NHTM đó là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền. Là người đi vay để cho vay, NHTM điều chuyển vốn từ người thừa sang người thiếu. Vốn góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế ngày nay, phần lớn các khoản chi trả về hàng hoá, dịch vụ của xã hội đều được thực hiện qua NHTM với những hình thức thanh toán thích hợp, thủ tục đơn giản và kỹ thuật ngày càng cao. Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào ngân hàng nên việc giao lưu hàng hoá dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm hơn. Những chức năng đó của ngân hàng là một minh chứng khẳng định tầm quan trọng của NHTM trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của bất cứ một quốc gia nào.
1.2.2. Vai trò của TDNH đối với sự phát triển KTNQD
TDNH là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng còn bên kia là các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế. TDNH là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt, kịp thời. TDNH được coi là đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế và là một công cụ quan trọng để nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế.
TDNH có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Vai trò ấy càng trở nên quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển của khu vực KTNQD. Vì sao vậy?
Bởi vì khu vực ấy đang rất thiếu vốn và rất cần vốn. Xét một cách toàn diện thì KTNQD còn rất nhiều tồn tại và khó khăn trong quá trình phát triển cùng với những quy luật khắc nghiệt của cơ chế thị trường KTNQD ở nước ta là một khu vực kinh tế mới được vực dậy, phần lớn được hình thành là do chuyển đổi sở hữu, từ sự phá sản củ