Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y

Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986), nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Cơ chế kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho hoạt động thương mại ngày càng được mở rộng, từ đó tăng cường khả năng khai thác các nguồn lực trong và ngoài nước.Với một nước nghèo và kém phát triển như Việt nam thì việc nhập khẩu phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất nước có vai trò vô cùng quan trọng.

doc89 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở đầu Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986), nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Cơ chế kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho hoạt động thương mại ngày càng được mở rộng, từ đó tăng cường khả năng khai thác các nguồn lực trong và ngoài nước.Với một nước nghèo và kém phát triển như Việt nam thì việc nhập khẩu phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất nước có vai trò vô cùng quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Việt nam đang tiếp tục mở rộng hoạt động thương mại theo hương đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, mở rộng giao lưu kinh tế tạo thị trường thông suốt trong và ngoài nước. Để làm được điều đó Nhà nước đã có những chính sách, biện pháp khuyến khích nhất định. Nhờ thế mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tăng lên, kéo theo nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp. Một thách thức mới được đặt ra đối với hầu hết các doanh nghiệp hiện nay là: làm thế nào để có thể đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt ?, câu trả lời là nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vì hiệu quả kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô, đầu tư cải tiến công nghệ và kỹ thuật trong kinh doanh và quản lý kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh cho người lao động từ đó giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường. Xuất phát từ sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ngày nay, sau một thời gian nghiên cứu tại trường kết hợp với tình hình nghiên cứu thực tế tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y, cùng với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Phương Liên em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y” làm đêf tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung đề tài gồm 3 phần: Chương I: Lý luận chung về hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại các công ty xuất nhập khẩu trong điều kiện kinh tế thị trường. Chương II: Tình hình nhập khẩu và hiệu quả nhập khẩu tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y. Chương III: Một số ý kiến nhằm đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu và nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty Cổ phần dược và vật tư thú y. Chương I . Lý luận chung về hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại các công xuất nhập khẩu trong điều kiện kinh tế thị trường Hoạt động nhập khẩu trong cơ chế thị trường Khái quát chung về hoạt động nhập khẩu trong cơ chế thị trường . Lịch sử đã chứng minh rằng không một nền kinh tế nào có thể phát triển nếu nó thực hiện chính sách đóng cửa và cách biệt với thế giới xung quanh. Trên thực tế cho thấy các nước có nền kinh tế phát triển đều dựa trên sự phát triển các mối quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá, khoa học kỹ thuật và công nghệ với các nước khác. Các mối quan hệ đó chính là hoạt đông xuất nhập khẩu . Thương mại quốc tế ra đời trên các mối quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các nước trên thế giới. Thương mại quốc tế phát triển không những tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, mở rộng và nâng cao quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá của một nước nào đó mà còn tạo ra sự phát triển chung cho tất cả các nước tham gia các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và nhà nước ta khẳng định: “Không ngừng mở rộng, phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu, đó là những đòi hỏi khách quan của thời đại’’ . Trong giai đoạn hiện nay, kinh doanh thương mại quốc tế có những nhiệm vụ cơ bản sau: * Tạo vốn cần thiết để nhập khẩu vật tư kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, thực hiên CNH-HĐH. * Thông qua hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế phát huy và sử dụng tốt hơn nguồn vốn lao động và tài nguyên của đất nước tăng thu nhập quốc dân. * Kinh doanh thương mại quốc tế phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động * Mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại để nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của đất nước. Toàn bộ nhiệm vụ của kinh doanh thương mại quốc tế là nhằm góp phần tích cực thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới và xây dựng kinh tế của nước ta. Kinh tế thi trường là một mô hình kinh tế hỗn hợp, sự quản lý nền kinh tế và cơ chế vận động của nó chính là sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường kết hợp với sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nói đến thi trường ta có thể hiểu theo hai giác độ: thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá tiền tệ hay thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và tổng khối lượng cung có khả năng đáp ứng. Cơ chế vận động của thị trường dựa vào ba quy luật chủ yếu : quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Các quy luật này tác động đến mọi đối tượng, mọi quan hệ diễn ra trên thị trường và tự điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong thực tế sự tác động của nhà nước ở tầm vĩ mô là rất cần thiết thông qua các công cụ quản lý như: lãi suất tiền gửi, tiền vay, các chính sách thuế, hạn ngạch, tỷ giá .. Với một cơ chế kinh tế như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu đòi hỏi phải nhanh chóng phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Việc buôn bán giao lưu với nước ngoài phải luôn xuất phát từ tình hình cung cầu trên thị trường. Đồng thời với cơ chế kinh tế mới các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải thường xuyên theo sát với những chính sách pháp luật của nhà nước ban hành trong từng giai đoạn để đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả. Trong điều kiện kinh tế mới, hoạt động này có những đặc điểm sau: - Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán với nước ngoài nên nó phức tạp hơn buôn bán trong nước vì đối tượng giao dịch là người khác quốc tịch, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, đồng tièn thanh toán là ngoại tệ mạnh, buôn bán qua khâu trung gian chiếm tỷ trọng lớn, hàng hoá vận chuyển qua cửa khẩu biên giới của các quốc gia khác nhau phải thông qua các tập quán thông lệ quốc tế cũng như các địa phương. - Thị trường trong và ngoài nước luôn biến động, luôn sẵn có các đối thủ cạnh tranh có thế lực và gây không ít khó khăn cho chúng ta trong việc xâm nhập và mở rộng thị trường. - Hoạt động xuất nhập khẩu có liên quan trực tiếp đến quan hệ về chính trị và kinh tế giữa nước ta với nước khác. Vì vậy, nền kinh tế mở cửa là cơ hội rất tốt cho các doanh nghiệp có thể làm ăn hợp tác với nước ngoài. - Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải tìm nguồn hàng, bạn hàng, tự cân đối về tài chính để tổ chức hoạt động nhằm đem lại hiệu quả cho đơn vị mình, chứ không phải hoạt động dựa vào chỉ tiêu kế hoạch do nhà nước giao, các đơn vị phải tự tổ chức giao dịch, đàm phán, kí kết hợp đồng, tổ chức thanh toán và thanh lý hợp đồng. 2. Vai trò và đặc điểm hoạt động nhập khẩu trong cơ chế thị trường 2.1. Vai trò của hoạt động nhập khẩu trong cơ chế thị trường Hoạt động nhập khẩu là một mặt của lĩnh vực ngoại thương. Nhập khẩu chính là việc mua hàng hoá của nước ngoài đem bán trong nước phục vụ cho những nhu cầu trong nước, vì vậy hoạt động này có vị trí rất quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Thông qua hoạt động nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Khi mà nền kinh tế nước ta còn lạc hậu về kỹ thuật, vốn đầu tư ít, trình độ quản lý còn hạn chế, thì việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư, công nghệ là rất cần thiết để phát triển nền kinh tế đất nước hoà nhập với xu thế phat triển chung của toàn thế giới. - Nhập khẩu sẽ tranh thủ khai thác được mọi tiềm năng thế mạnh về hàng hoá, công nghệ của nước ngoài cũng như thực hiện giao lưu văn hoá với nước ngoài nhằm mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau trên thương trường quốc tế. - Ngoài ra nhập khẩu còn là bộ phận cấu thành nên cán cân xuất nhập khẩu. Thông qua cán cân xuất nhập khẩu người ta có thể đánh giá khả năng phát triển kinh tế của một đất nước. Xem xét vị trí của hoạt động nhập khẩu có thể thấy nhập khẩu có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, thể hiện ở: - Thứ nhất là nhập khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh thương mại . - Thứ hai là nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH . - Thứ ba là nhập khẩu có vai trò nhất định trong việc cải thiện và nâng cao mức sống nhân dân vì thông qua nhập khẩu, nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, sách báo ... cũng như đầu vào cho sản xuất được thoả mãn và đảm bảo từ đó đời sống nhân dân được cải thiện người lao động có việc là ổn định, trình độ dân trí tăng. - Thứ tư là nhập khẩu có tác dụng kìm giữ giá cả bình ổn thị trường và kiềm chế lạm phát. Việc nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất đủ để thoả mãn nhu cầu sẽ góp phần điều tiết quan hệ cung cầu về hàng hoá đó trên thị trường do đó có tác dụng kìm giữ giá cả của mặt hàng đó. Như vậy nhập khẩu có tác dụng nhất định trong việc ổn định thị trường và kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm kể trên nhập khẩu cũng có những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế đất nước. Dưới đây là những hạn chế tiêu biểu của nhập khẩu : - Công tác nhập khẩu đòi hỏi một lượng ngoại tệ lớn (để mua hàng, chi phí bảo hiểm, chi phí vận chuyển... ) trong khi đối với việt nam vốn dành cho nhập khẩu lại rất eo hẹp. Vì thế sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm là một trong những nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu của nhà nước. - Việc nhập khẩu hàng hoá là hàng tiêu dùng sẽ ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất trong nước. Trong điều kiện sản xuất hiện tại Việt nam, giá hàng nhập khẩu rẻ hơn, phẩm chất tốt hơn sẽ khuyến khích nhu cầu hàng nhập khẩu gia tăng và cùng với xu hướng đó nhu cầu về hàng nội sẽ giảm xuống. Sự cạnh tranh tất yếu giữa hàng nhập khẩu và hàng nội sẽ gây khó khăn rất lớn cho các nghành sản xuất trogn nước cũng như đối với các nhà quản lý. Vì vậy trong điều kiện hiện nay, các nhà hoạch định chiến lược kinh tế ở tầm vĩ mô cần tính toán sao cho có thể tranh thủ được lợi thế của nước ta trong từng thời kì để mở mang sản xuất, nhằm mục đích vừa đáp ứng nhu cầu nội địa về số lượng và chất lượng, vừa tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị trường ra nước ngoài. 2.2. Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu Do hoạt động nhập khẩu diễn ra giữa hai quốc gia khác nhau nên nó có những đặc thù riêng khác với mua hàng trong nước. Để hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả cao cần xem xét các đặc điểm sau của hoạt động nhập khẩu : - Hoạt động nhập khẩu chịu sự sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật khác nhau như : Công ước quốc tế về ngoại thương, luật quốc gia của các nước hữu quan, tập quán thương mại quốc tế...và phụ thuộc rất lớn vào đường lối chính sách, quan điểm đối ngoại của Nhà nước, và mối quan hệ chính trị ngoại giao của nhà nước với các nước khác. - Các phương thức giao dịch thông thường trong hoạt động nhập khẩu là: giao dịch qua trung gian, buôn bán đối lưu, giao dịch đấu giá, đấu thầu quốc tế, giao dịch qua sở giao dịch, giao dịch tại hội trợ triển lãm. - Mọi hoạt động nhập khẩu hàng hoá đều phải được tiến hành thông qua hợp đồng kinh tế. Các bên tham gia ký kết hợp đồng đều phải tuân thủ nghiêm ngặt các điều khoản của hợp đồng. Mọi vi phạm hợp đồng đều gây thiệt hại rất lớn cho tình hình tài chính, uy tín, quan hệ ngoại giao và buôn bán lâu dài giữa các doanh nghiệp, giữa các nước. - Phương thức thanh toán trong hoạt động thương mại quốc tế nói chung và trong hoạt động nhập khẩu nói riêng rất đa dạng bao gồm các phương thức như : phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ (L\C ), thanh toán bằng hàng, thanh toán trực tiếp bằng tiền, séc...Nhưng phương thức thanh toán phổ biến nhất hiện nay là phương thức tín dụng chứng từ (L\C ). - Tiền tệ dùng trong thanh toán thông thường là ngoại tệ mạnh có sức chuyển đổi như USD, JPY, DM... - Điều kiện cơ sở giao hàng hiện nay có rất nhiều nhưng ở Việt nam có 2 điều kiện được sử dụng phổ biến nhất đó là điều kiện CIF và FOB. Thông thường các doanh nghiệp của ta nhập khẩu theo điều kiện CIF còn xuất khẩu thì theo điều kiện FOB... - Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên địa bàn rộng, thủ tục phức tạp qua nhiều khâu, nấc. Do đó thời gian chu chuyển chậm hơn rất nhiều so với kinh doanh trong nước. - Kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức kinh doanh trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ ngoại thương, kinh nghiêm kinh doanh ngoại thương ngoài ra nó còn phụ thuộc vào sự am hiểu thị trường trong và ngoài nước, vào sự tiếp nhận một cách chính xác nhanh nhạy các thông tin trên thị trường. - Do có sự cách xa nhau về mặt địa lý nên trong hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra rất nhiều rủi ro, có những rủi ro thuộc loại rủi ro hàng hoá (do gặp thiên tai, hoả hoạn nhất là vận chuyển đường dài), những rủi ro thuộc loại rủi ro thanh toán như chính sách tín dụng của các quốc gia có sự thay đổi đột ngột, phía đối tác không chịu thanh toán khi nhận được hàng hoặc tìm cách kéo dài thời hạn thanh toán... Nhằm đề phòng các rủi ro nói trên các công ty có thể mua các loại bảo hiểm tương ứng. Chi phí bảo hiểm có thể do đơn vị hay khách hàng, chủ hàng trả tuỳ thuộc vào điều khoản của hợp đồng. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Nhà nước khuyến khích và cho phép các thành phần kinh tế cùng tham gia vào mọi hoạt động kinh tế của đất nước. Trong kinh doanh nhập khẩu Nhà nước quy định tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nếu được thành lập một cách hợp pháp, đúng ngành nghề đăng ký kinh doanh và có vốn lưu động ít nhất là 200.000 USD đều có thể được cấp giấy phép kinh doanh ngoại thương. Song không phải tất cả các doanh nghiệp đó đều được nhập khẩu trực tiếp mà chỉ có một số doanh nghiệp nhất định có ccs điều kiện như có tư cách pháp nhân, có kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, có vốn tại ngân hàng. Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động nhập khẩu dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước là một điểm mới trong hoạt động ngoại thương. Kinh doanh nhập khẩu không còn là một lĩnh vực độc quyền của các công ty xuất nhập khẩu Nhà nước nữa. Điều này buộc các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau phải cạnh tranh và hợp tác với nhau. Cạnh tranh buộc các công ty xuất nhập khẩu phải quan tâm đến hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước đã tạo điều kiện cho các đơn vị năng động hơn trong kinh doanh từ đó không ngừng nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Bảo đảm quyền tự chủ trong kinh doanh tài chính củ các tổ chức kinh doanh nhập khẩu đi đôi với sự tăng cường quản lý thống nhất của Nhà nước cũng tạo điều kiện cho các công ty hoạt động thuận lợi hơn nhưng cũng buộc cac công ty phải quan tâm đến việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả hơn. Trên đây là những đặc điểm cơ bản nhất của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường. Những đặc điểm này đã ảnh hưởng xuyên suốt quá trình kinh doanh của các đơn vị kinh doanh nhập khẩu. Do đó khi phân tích tình hình nhập khẩu và đánh giá hiệu quả nhập khẩu trong các đơn vị kinh doanh nhập khẩu cần lưu ý đến các đặc điểm trên. II. Hiệu quả hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu trong các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu . 1. Khái niệm về hiệu quả . Do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu khác nhau mà có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Trước đây người ta coi hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu trong tiêu thụ hàng hoá. Viện nghiên cứu khoa học thuộc uỷ ban Nhà nước Liên xô cũ đã xem hiệu quả kinh tế là tốc độ tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Như vậy ở đây hiệu quả đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhịp độ tăng các chỉ tiêu đó. Ngày nay quan điểm này không còn phù hợp, kết quả sản xuất có thể tăng lên do quy mô sản xuất được mở rộng, cùng một kết quả sản xuất mà có 2 mức chi phí khác nhau thì sẽ có hiệu quả khác nhau nhưng nếu theo quan điểm trên thì chúng có hiệu quả bằng nhau. Hơn nữa, điều kiện sản xuất năm hiện tại khác với năm trước các yếu tố bên trong và bên ngoài của nền kinh tế có những ảnh hưởng khác nhau việc chọn năm gốc so sánh có ảnh hưởng lớn đến kết quả so sánh. Như vậy hiệu quả kinh doanh theo ý nghĩa chung nhất được hiểu là các lợi ích kinh tế, xã hội đạt được từ quá trình sản xuất kinh doanh. Hay nói cách khác hiệu quả kinh doanh bao gồm hai mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong đó hiệu quả kinh tế có ý nghĩa quyết định. Hiệu quả kinh tế: là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp hoặc xã hội để đạt được kết quả cao nhất. Hiệu quả kinh tế là sự so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra (hoặc so sánh giữa kết quả đầu ra và yếu tố đầu vào) để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh tế chủ yếu được phản ánh thông qua chỉ tiêu lợi nhuận đạt được từ quả trình kinh doanh. Hiệu quả xã hội phản ánh những lợi ích về mặt xã hội đạt được từ quả trình kinh doanh. Hiệu quả xã hội của hoạt động thương mại là việc cung ứng hàng hóa ngaỳ càng tốt hơn nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, văn hóa tinh thần cho xã hội, góp phần vào việc cân đối cung cầu, ổn định giá cả thị trường, mở rộng giapo lưu kinh tế giữa các vùng hoặc các nước, là việc giải quýêt công ăn việc làm cho người lao động và thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiệu quả xã hội trong kinh doanh thương mại còn biểu hiện thông qua việc thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước, đảm bảo cung ứng hàng hóa kịp thời và đầy đủ, nhất là những mặt hàng thiết yếu cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, và những vùng bị thiên tai, bão lụt. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau. Nó vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau ở từng nơi, từng lúc. Hiệu quả kinh tế dễ xác định, có thể đo lường bằng các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả ở mức tổng hợp hoặc đặc thù. Hiệu quả xã hội thì khó xác định bắng các chỉ tiêu cụ thể mà chỉ có thể đánh giá thông qua những biểu hiện của đời sống xã hội của một địa phương, vùng lãnh thổ hoặc trong phạm vi nền kinh tế quốc dân. do vậy đối với các doanh nghiệp khi đánh giá hiệu quả thường chỉ đề cập đến hiệu quả kinh tế. Hiệu quả xã hội chỉ được kết hợp đánh giá đan xen cùng hiệu quả kinh tế. Từ khái niệm trên hiệu quả kinh tế là sự so sánh giữa kết quả với chi phí ta có thể hình thành được 2 công thức so sánh: Hiệu quả = kết quả - chi phí (1) Hoặc Kết quả Hiệu quả = (2) Chi phí Nếu hiểu theo công thanh so sánh hiệu số thì hiệu quả được hể hiện bằng chỉ tiêu lợi nhuận và kết được thể hiện bằng chỉ tiêu doanh thu. Trong trường hợp này đã làm đồng nhất khái niệm hiệu quả và kết quả. Với cách so sánh hiệu số đã làm lợi nhuận mang hai nội dung vừa là chỉ tiêu phản ánh kết quả vừa là chỉ tiêu phản ánh hiêụ quả. Nếu coi lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả thì nó không đủ khả năng đế đánh giá chất lượng hoạt động giữa các doanh nghiệp, trong khi đó chỉ tiêu hiệu quả được coi là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng hoạt động giữa các doanh nghiệp. Nếu sử dụng công thức so sánh theo dạng thương số thì khắc phục được những hạn chế của công thức (1).đồng thời nó phân biệt rành rọt giữa chỉ tiêu kết quả và hiệu quả. Hiệu quả phải là một số tương đối. Kết quả đánh giá quy môi. Hiệu quả đánh giá chất lượng. Sử dụng công thức thương số có thể xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả ở mức tổng hợp hoặc đặc thù, đủ khả năng để so sánh hiệu quả kinh tế giữa các doanh nghiệp. Do vậy, ta có thể kết luận hiệu quả kinh doanh là một số tương đối phản ánh kết quả đạt được với chi phí bỏ ra. đó là sự so sánh giữa kết quả đầu ra và chi phí đầu vào. Như vậy, nếu kết quả kinh doanh đạt được càng nhiều với chi phí bỏ ra càng ít thì hiệu quả kinh tế càng
Tài liệu liên quan