Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc

Xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề rộng lớn và phức tạp của nhiều quốc gia trên thế giới. Tình trạng đói nghèo và kinh tế kém phát triển của khu vực nông thôn là mối quân tâm lớn của các chính phủ, được nhiều ngành khoa học đi sâu vào nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp trước mắt và lâu dài. Đất nước Việt Nam hàng nghìn năm lịch sử luôn gắn bó với nền văn minh lúa nước. Vấn đề nông nghiệp nông thôn luôn được Đảng, nhà nước và nhân dân quan tâm đến vấn đề này. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần có nhiều giải pháp và nhiệm vụ cơ bản như: Hoàn thiện quy hoạch tổng thể về công nghiệp nông thôn, làm cơ sở cho kế hoạch hoá và đầu tư cho cơ sở hạ tầng; tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua các chính sách và giải pháp cụ thể cho từng thời kỳ Để tăng cường vai trò tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với việc phát triển sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp xác định nông thôn là thị trường cho vay, nông nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chủ yếu của mình. Cần tạo mọi điều kịên thuận lợi về vốn để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đạt kết quả tốt. Muốn vậy ngân hàng nông nghiệp phải thực hiện: Đa dạng hoá hình thức hình thức huy động vốn theo phương châm “đi vay để cho vay” chủ yếu là huy động tại chỗ để đầu tư tại chỗ. Tích cực tham gia vào thị trường vốn của ngân hàng nhằm tạo nguồn vốn cho đầu tư tín dụng. Gắn việc huy động tiền gửi với việc cung cấp tín dụng, tạo ý thức tiết kiệm và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn dân, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

doc79 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề rộng lớn và phức tạp của nhiều quốc gia trên thế giới. Tình trạng đói nghèo và kinh tế kém phát triển của khu vực nông thôn là mối quân tâm lớn của các chính phủ, được nhiều ngành khoa học đi sâu vào nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp trước mắt và lâu dài. Đất nước Việt Nam hàng nghìn năm lịch sử luôn gắn bó với nền văn minh lúa nước. Vấn đề nông nghiệp nông thôn luôn được Đảng, nhà nước và nhân dân quan tâm đến vấn đề này. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần có nhiều giải pháp và nhiệm vụ cơ bản như: Hoàn thiện quy hoạch tổng thể về công nghiệp nông thôn, làm cơ sở cho kế hoạch hoá và đầu tư cho cơ sở hạ tầng; tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua các chính sách và giải pháp cụ thể cho từng thời kỳ… Để tăng cường vai trò tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với việc phát triển sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp xác định nông thôn là thị trường cho vay, nông nghiệp là đối tượng cho vay, nông dân là khách hàng chủ yếu của mình. Cần tạo mọi điều kịên thuận lợi về vốn để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đạt kết quả tốt. Muốn vậy ngân hàng nông nghiệp phải thực hiện: Đa dạng hoá hình thức hình thức huy động vốn theo phương châm “đi vay để cho vay” chủ yếu là huy động tại chỗ để đầu tư tại chỗ. Tích cực tham gia vào thị trường vốn của ngân hàng nhằm tạo nguồn vốn cho đầu tư tín dụng. Gắn việc huy động tiền gửi với việc cung cấp tín dụng, tạo ý thức tiết kiệm và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn dân, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền… Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Yên Lạc em đã nghiên cứu và mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay vốn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc”. Kết cấu chuyên đề gồm: Phần I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về ngân hàng và tín dụng ngân hàng. Phần II: Thực trạng công tác huy động vốn và vay vốn của NHNo & PTNT Yên Lạc. Phần III: Giải pháp huy động vốn và cho vay vốn của NHNo & PTNT Yên Lạc. Với trình độ còn hạn chế nên bài viết này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có thể nhận thức được vấn đề một cách sâu sắc hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ nhân viên NHNo & PTNT và các cơ quan hữu quan huyện Yên Lạc đã tận tình giúp đỡ, cung cấp số liệu. Em xin cảm ơn các thầy cô trong khoa KTNN & PTNT trường ĐH KTQD HN và đặc biệt là TS Đào Duy Cầu đã tận tình giúp em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đê tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn! PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGÂN HÀNG VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG. I. NGÂN HÀNG NHNo & PTNT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Lịch sử hình thành. Ngân hàng NHNo & PTNT được hình thành và phát triển qua một quá trình lâu dài với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng thế kỉ từ XV-XVIII, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau, đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng. Sang thế kỉ thứ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển. Việc các ngân hàng cùng thực hiện các chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã gây cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng. Lúc này hệ thống ngân hàng được phân làm hai nhóm: + Thứ nhất là các ngân hàng được phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành sau chuyển thành NHTƯ. + Thứ hai là các ngân hàng không được phép phát hành tiền, chỉ làm chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế gọi là ngân hàng trung gian. Đây là một mắt xích cực kỳ quan trọng nối NHTƯ với nền kinh tế, cũng như là cầu nối để những người có vốn với những người cần vốn trong xã hội gặp nhau. Thời kỳ đầu khi mới thực hiện phân hoá hệ thống ngân hàng, các ngân hàng trung gian thực hiện tất cả các hoạt động như nhận tiền gửi, cho vay và làm các nhiệm vụ thanh toán. Ban đầu chủ yếu là nhận tiền gửi không kỳ hạn, cho vay ngắn hạn. Về sau nhận cả cho vay trung và dài hạn bằng nguồn vốn trung hạn, dài hạn do huy động tiền gửi và phát hành chứng khoán. Hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển với sự phát triển của thị trường chứng khoán đòi hỏi hình thành nên những ngân hàng, những trung gian tài chính chuyên hoạt động một lĩnh vực nào đó, đã phân chia các ngân hàng trung gian thành các ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực riêng: NHNo & PTNT, NHĐT,…trong đó ngân hàng thương mại đóng vai trò chủ đạo. 2. Khái niệm ngân hàng. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Theo luật ngân hàng Pháp năm 1914: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận tiền gửi cho công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Luật ngân hàng Ấn Độ năm 1950, được bổ xung năm 1959 đã nêu: “ ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền kí thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”. Ở Việt Nam, theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành vào ngày 23/05/1990: “Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ triết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Sau khi có luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng thì tại điều 20 luật các tổ chức tín dụng đã nêu: “ Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Tóm lại ta nhận thấy các NHNo & PTNT đều có chung một tính chất là việc nhận tiền kí thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng. 3. Vai trò của ngân hàng NHNo & PTNT. 3.1 NHNo & PTNT là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân phải mở rộng quy mô cả chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế, làm được điều này phải có vốn. Ngược lại khi nền kinh tế ngày càng phát triển sẽ tạo ra nhiều vốn. NHNo & PTNT là chủ thể chính cung cấp vốn cho sản xuất kinh doanh. NHNo & PTNT đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp…trong nền kinh tế. Bằng vốn huy động được trong xã hội, thông qua nghiệp vụ tín dụng NHNo & PTNT đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng vốn kịp thời cho quá trình tái sản xuất. 3.2 NHNo & PTNT là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường. Trong điều kiện kinh tế thị trường hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan vì thế sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường trên mọi phương diện. Để làm được điều này doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng lao động, cải tiến máy móc, công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất…Những hoạt động này đòi hỏi có một lượng vốn đầu tư lớn nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết doanh nghiệp tìm đến ngân hàng xin vay vốn thoả mãn nhu cầu về vốn của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. 3.3 NHNo & PTNT là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng nghiệp vụ tín dụng và thanh toán giữa các NHNo & PTNT trong hệ thống, các NHNo & PTNT đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHNo & PTNT thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô “ nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”. 3.4 NHNo & PTNT là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Sự phát triển kinh tế mỗi nước luôn gắn liền với sự phát triển toàn thế giới. NHNo & PTNT cùng hoạt động kinh doanh của mình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Thông qua các hoạt động thanh toán, mua bán ngoại hội, quan hệ với các ngân hàng nước ngoài, hệ thống NHNo & PTNT đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. 4. Chức năng của NHNo & PTNT. 4.1 Chức năng trung gian tín dụng. Đây là chức năng đặc trưng nhất của NHNo & PTNT. NHNo & PTNT nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó để cho vay. Chính là đã chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư. Người có tiền dư thừa có thể mua công cụ tài chính như: cổ phiếu, trái phiếu…trực tiếp thông qua thị trường tài chính. Tuy nhiên tài chính trực tiếp đôi khi không mang lại hiệu quả cao nhất cho nhà đầu tư vì người có tiền đầu tư và người sử dụng tiền đầu tư thiếu thông tin chính xác về nhau, hay phí giao dịch quá lớn và do đó rủi ro đầu tư là tương đối cao. Chính vì những hạn chế đó mà các trung gian tài chính ra đời và phát triển rất nhanh, điển hình là các NHNo & PTNT. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú và chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực NHNo & PTNT đã thực sự góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. 4.2 Chức năng trung gian thanh toán. NHNo & PTNT thực hiện chức năng này trên cơ sở huy động mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng. Khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu khách hàng: Trích tiền thanh toán hàng hoá, dịch vụ nhập tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế: + Thứ nhất: thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn, cho phép khách hàng thực hiện thanh toán nhanh tróng, chính xác và hiệu quả. + Thứ hai: Việc cung ứng một dịch vụ thanh toán có chất lượng làm tăng uy tín cho khách hàng do đó tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút nguồn vốn tiền gửi. + Thứ ba: Việc thanh toán không dùng tiền mặt được mở rộng giúp nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát lượng tiền trong lưu thông cua NHTƯ. 4.3 Chức năng tạo tiền. Với khoản tiền gửi mới tăng lên ban đầu do khách hàng gửi vào hệ thống hoặc số dự trữ tăng thêm do NHTƯ tiếp vốn cho NHNo & PTNT qua hoạt động tái cấp vốn hoặc hoạt động qua nghiệp vụ thị trường mở thi hệ thống NHNo & PTNT có thể mở rộng khối lượng tiền tối đa theo công thức: Khả năng mở rộng tiền tối đa = Số tiền gửi mới tăng thêm x 1/Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Điều kiện thực hiện mở rộng tiền gửi tối đa là sự kết hợp hai chức năng: Trung gian tín dụng và trung gian thanh toán. Bởi vì thông qua chức năng làm trung gian tín dụng ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay được lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ. Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, ngân hàng chưa hề tạo tiền, chỉ khi thực hiện nhiệm vụ cho vay thì ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. 5. Các nghiệp vụ cơ bản của NHNo & PTNT. 5.1 Nghiệp vụ thuộc tài sản nợ. Đây là nghiệp vụ quan trọng nhất của NHNo & PTNT vì nó chính là nghiệp vụ tạo vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. NHNo & PTNT là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên vốn lại càng quan trọng. Chỉ khi ngân hàng là tổ chức được một nguồn vốn đủ lớn và ổn định thì ngân hàng mới có thể mở rộng được hoạt động kinh doanh của mình. 5.2 Vốn tự có. Vốn tự có của NHNo & PTNT là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHNo & PTNT song nó là điều kiện cần thiết khi thành lập một ngân hàng. Do tính chất ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể sử dụng chủ động vào các mục đích khác nhau: Trang bị cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định…phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo, gây lòng tin đối với khách hàng. 5.3 Nghiệp vụ cho vay. Đây là nghiệp vụ tạo ra khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các NHNo & PTNT. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản đầu tư sinh lợi của ngân hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn và trung hạn đối với nền kinh tế. 5.4 Nghiệp vụ trung gian. Nghiệp vụ trung gian là hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT liên quan đến nghiệp vụ bên có và bên nợ. Nghiệp vụ này có xu hướng ngày càng phát triển mạnh và mang lại nguồn lợi không nhỏ cho ngân hàng. Bản chất của nghiệp vụ này là nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu nào đó của khách hàng. NHNo & PTNT có khả năng cung cấp, trên cơ sở đó làm tăng thu nhập cho ngân hàng: Séc thanh toán, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng… Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ: Làm đại lý phát hành chứng khoán, nghiệp vụ uỷ thác đầu tư… II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1. Khái niệm về vốn. Vốn của NHNo & PTNT là những giá trị tiền tệ do NHNo & PTNT tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Thực chất nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn, tiền tệ cho ngân hàng để rồi ngân hàng phải trả cho họ một khoản thu nhập. Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời chính hoạt động đó lại quyết định sự phát triển kinh doanh của ngân hàng. Nhìn chung vốn chi phối mọi hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHNo & PTNT. 2. Khái niệm về tín dụng. Tín dụng ra đời từ rất sớm cùng với sự phân công lao động và sở hữu tư nhân về tư liệu sản suất. Trong những năm qua có nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra định nghĩa tín dụng. + Theo quan điểm của Mác thì “ Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu với một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng một thời gian nhất định, nó lại quay lại người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn ban đầu”. + Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: “ Tín dụng là lòng tin, nghĩa là cho vay tin tưởng và người đi vay sử dụng vốn đúng mục đích hiệu quả và hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời gian quy định”. + Một số tác giả cho rằng “ Tín dụng là việc sử dụng vốn của người khác và hứa sẽ trả sau”. Như vậy, nói cách khác tín dụng là quan hệ vay mượn bằng tiền hoặc hàng hoá trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi suất một thời gian nhất định giữa người đi vay và người cho vay. 3. Bản chất của tín dụng. Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay và giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động giá trị tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình vận động được khái quát qua các giai đoạn sau: Giai đoạn 1: giai đoạn phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hoá được chuyển từ tay người dùng sang người đi vay. Đây là giai đoạn cơ bản khác với việc mua bán hàng hoá thông thường là khi vay giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay mà không thay đổi hình thái tồn tại. Giai đoạn 2: Bên vay sử dụng toàn bộ giá trị nguồn vốn vay như phần tài sản của mình lúc này người đi vay chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu vốn tín dụng. Giai đoạn 3: Là giai đoạn cả gốc và tiền lãi được hoàn trả cho người cho vay. Đây là giai đoạn cuối kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng và sự hoàn trả tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là dấu ấn phân biệt phạm trù tín dụng với phạm trù kinh tế khác. 4. Phân loại tín dụng ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú. Người ta thường dựa vào tiêu thức sau để phân loại tín dụng: + Theo thời hạn cho vay, tín dụng gồm: Tín dụng ngắn hạn (dưới một năm), tín dụng trung hạn (từ 1-5 năm), tín dụng dài hạn (trên 5 năm). + Theo đối tượng tín dụng, tín dụng gồm: Tín dụng vốn lưu động cho vay để hình thành tài sản lưu động, tín dụng vốn cố định cho vay để hình thành tài sản cố định. + Theo mục đích sử dụng vốn, phân thành: Tín dụng sản suất và lưu thông hàng hoá được cấp cho các doanh nghiệp để tiến hành sản xuất kinh doanh và tín dụng tiêu dùng cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. + Theo chủ thể tín dụng, gồm tín dụng thương mại (quan hệ tín dụng được biểu hiện dưới hình thức mua bán hàng hoá), tín dụng ngân hàng (quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác, với các nhà doanh nghiệp và cá nhân), tín dụng nhà nước (quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư hoặc các tổ chức kinh tế xã hội khác), tín dụng tư nhân, cá nhân (quan hệ tín dụng giữa cá nhân và tư nhân cho vay nặng lãi hay giữa các cá nhân với nhau), tín dụng thuê mua (quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp là người thuê với các tổ chức tín dụng thuê mua). + Theo phương diện tổ chức tín dụng chính thức và tín dụng không chính thức. “Tín dụng chính thức là hình thức tín dụng được tổ chức theo luật định của quốc gia, bao gồm các ngân hàng Nhà nước và ngân hàng tư nhân, hợp tác xã tín dụng và một số hình thức khác tín dụng không chính thức là tín dụng do các tổ chức cá nhân nằm ngoài các tổ chức đã kể trên thực hiện. 5. Vai trò của vốn tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn. Tín dụng ra đời tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá bởi nó gắn liền với sự phân công lao động xã hội và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó bất kỳ xã hội nào có sản xuất hàng hóa thì tất yếu phải có sự hoạt động của tín dụng. Trong những năm qua, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường đã thực sự đi vào đời sống kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam. Trong nông nghiệp, nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu, đầu tư vốn mua sắm tư liệu, công cụ sản xuất, hướng vào đầu tư nuôi trồng cây con có giá trị kinh tế, từ đó cơ sở vật chất của người dân được bảo vệ và nâng cao. Để đạt được những thành tựu to lớn và để tiếp tục duy trì sản xuất mang lại những cơ hội tốt nhất cho sản xuất kinh doanh thì vốn tín dụng đã trở thành công cụ đắc lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và không thể thiếu được đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vốn tín dụng có những vai trò sau: * Góp phần đáp ứng nhu cầu đầu tư thâm canh từ đó góp phần khai thác mọi tiềm năng về đất đai ở đồng bằng, trung du, đồi núi, ven biển; lao động và tài nguyên địa phương. * Góp phần hình thành thị trường vốn ở nông thôn. Thị trường vốn tín dụng chính là cầu nối để người cần vốn đến người có vốn nhàn rỗi dễ dàng hơn. Chính vì vậy, đây là yếu tố quan trọng để giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế ở nông
Tài liệu liên quan