Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu sự chuyển hướng của nền kinh tế nước ta từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của Ngân sách Nhà nước cũng thay đổi và trở nên hết sức quan trọng. Hoạt động của Ngân sách Nhà nước đã chuyển biến một cách căn bản, từ chỗ chỉ gắn với khu vực kinh tế quốc doanh và các nhu cầu chi tiêu cho bộ máy Nhà nước trong cơ chế bao cấp sang một bình diện mới với phạm vi rộng lớn và bao quát hơn. Việc từ bỏ nguyên tắc quản lý trực tiếp theo kiểu “cấp phát giao nộp” đã tạo điều kiện cho Ngân sách Nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Thực tế đó đã đòi hỏi phải thúc đẩy quá trình hoàn thiện các quy chế về Ngân sách Nhà nước cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Năm 1996 luật Ngân sách Nhà nước ra đời và triển khai thực hiện từ ngày 01/01/1997 đã khẳng định vị trí và vai trò của Ngân sách Nhà nước trong tình hình mới. Qua đó cũng phần nào khẳng định tính cấp thiết của quá trình quản lý Ngân sách Nhà nước nói chung và quá trình quản lý Ngân sách xã-là cơ quan cấp uỷ chính quyền cơ sở nói riêng.
Sau 16 năm đổi mới tốc độ phát triển kinh tế gia tăng nhanh đã tác động sâu sắc đến công tác quản lý Ngân sách Nhà nước, đặc biệt là Ngân sách xã-là nơi trực tiếp liên hệ với dân, giải quyết các công việc của dân. do dân và vì dân, cho nên chính quyền cấp xã phải sử dụng Ngân sách xã như một công cụ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực tế từ năm 1997 đến nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác quản lý Ngân sách xã cũng còn những tồn tại cần giải quyết. Vấn đề đặt ra là công tác quản lý Ngân sách xã phải được hoàn thiện ra sao để tập trung được đầy đủ các khoản thu bảo đảm nhu cầu chi do xã thực hiện, các khoản chi phải đúng mục đích để tạo nguồn thu mới. Việc cấp phát sử dụng các khoản chi đó như thế nào để đạt được nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong quản lý Ngân sách Nhà nước. Do vậy vấn đề hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách xã được đặt ra như là nhiệm vụ hàng đầu của công tác quản lý Ngân sách nói chung.
Thấy được vấn đề mang tính thời sự đó trong thời gian 2 tháng thực tập tại Sở Tài chính-Vật giá Thái bình được chứng kiến và làm việc thực tế với sự giúp đỡ tận tình của thầy, cô giáo và cán bộ trong Sở em đã lựa chọn và tập trung nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong điều kiện hiện nay” làm đề tài cho luận văn của mình. Với mục đích là nghiên cứu tìm hiểu tình hình thu chi và công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn tỉnh trong những năm 1999-2001, nhằm tìm ra những giải pháp giúp cho việc củng cố, tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã trong tỉnh được tốt hơn.
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Ngân sách xã và sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã.
Chương 2: thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng-mục tiêu-giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong thời gian tới.
67 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý ngân sách xã ở thái bình trong điều kiện hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu sự chuyển hướng của nền kinh tế nước ta từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của Ngân sách Nhà nước cũng thay đổi và trở nên hết sức quan trọng. Hoạt động của Ngân sách Nhà nước đã chuyển biến một cách căn bản, từ chỗ chỉ gắn với khu vực kinh tế quốc doanh và các nhu cầu chi tiêu cho bộ máy Nhà nước trong cơ chế bao cấp sang một bình diện mới với phạm vi rộng lớn và bao quát hơn. Việc từ bỏ nguyên tắc quản lý trực tiếp theo kiểu “cấp phát giao nộp” đã tạo điều kiện cho Ngân sách Nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Thực tế đó đã đòi hỏi phải thúc đẩy quá trình hoàn thiện các quy chế về Ngân sách Nhà nước cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Năm 1996 luật Ngân sách Nhà nước ra đời và triển khai thực hiện từ ngày 01/01/1997 đã khẳng định vị trí và vai trò của Ngân sách Nhà nước trong tình hình mới. Qua đó cũng phần nào khẳng định tính cấp thiết của quá trình quản lý Ngân sách Nhà nước nói chung và quá trình quản lý Ngân sách xã-là cơ quan cấp uỷ chính quyền cơ sở nói riêng.
Sau 16 năm đổi mới tốc độ phát triển kinh tế gia tăng nhanh đã tác động sâu sắc đến công tác quản lý Ngân sách Nhà nước, đặc biệt là Ngân sách xã-là nơi trực tiếp liên hệ với dân, giải quyết các công việc của dân. do dân và vì dân, cho nên chính quyền cấp xã phải sử dụng Ngân sách xã như một công cụ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Thực tế từ năm 1997 đến nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác quản lý Ngân sách xã cũng còn những tồn tại cần giải quyết. Vấn đề đặt ra là công tác quản lý Ngân sách xã phải được hoàn thiện ra sao để tập trung được đầy đủ các khoản thu bảo đảm nhu cầu chi do xã thực hiện, các khoản chi phải đúng mục đích để tạo nguồn thu mới. Việc cấp phát sử dụng các khoản chi đó như thế nào để đạt được nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong quản lý Ngân sách Nhà nước. Do vậy vấn đề hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách xã được đặt ra như là nhiệm vụ hàng đầu của công tác quản lý Ngân sách nói chung.
Thấy được vấn đề mang tính thời sự đó trong thời gian 2 tháng thực tập tại Sở Tài chính-Vật giá Thái bình được chứng kiến và làm việc thực tế với sự giúp đỡ tận tình của thầy, cô giáo và cán bộ trong Sở em đã lựa chọn và tập trung nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong điều kiện hiện nay” làm đề tài cho luận văn của mình. Với mục đích là nghiên cứu tìm hiểu tình hình thu chi và công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn tỉnh trong những năm 1999-2001, nhằm tìm ra những giải pháp giúp cho việc củng cố, tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã trong tỉnh được tốt hơn.
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Ngân sách xã và sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã.
Chương 2: thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng-mục tiêu-giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã ở Thái bình trong thời gian tới.
Chương một
Ngân sách xã và sự cần thiết phải tăng cường
công tác quản lý Ngân sách xã
1.1: Sự ra đời, tồn tai và Quá trình phát triển Ngân sách xã là tất yếu khách quan:
1.1.1. Quá trình hình thành Ngân sách xã:
Lịch sử phát triển của nước ta cũng như các nước khác trên thế giới đều có quỹ xã, nay gọi là Ngân sách xã. Mặc dù trong quá trình hình thành và cơ chế quản lý có sự khác nhau nhưng đều xem ngân sách xã là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống tài chính quốc gia. Đến nay ngân sách xã của dân tộc ta đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử và gắn liền với nhiều triều đại khác nhau như Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn... cho đến ngày nay. Tuy mỗi thời kỳ xã có tên gọi khác nhau nhưng chức năng và nhiệm vụ của xã ít có sự thay đổi, chủ yếu là quản lý pháp luật, quản lý dân và xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã. Đặc biệt Ngân sách xã phục vụ cho bộ máy chính quyền Nhà nước cấp xã thực hiện 3 nhiệm vụ chủ yêú sau:
Một là: Quản lý nhân khẩu, ruộng đất để thu tô, thu thuế, thu phen tạp dịch và binh lính.
Hai là: Giữ gìn phép nước, trị an.
Ba là: Chăm lo lợi ích công cộng, đê điều, tưới tiêu, đường xá, cứu tế xã hội.
Công tác quản lý tài chính ngân sách xã ở thời kỳ nào cũng được coi trọng, có chức năng, chức danh, nhiệm vụ và kỷ luật tài chính cụ thể như: Xã trưởng thời nhà Lê, xã quan thời nhà Trần... Đến thời nhà Nguyễn, chính quyền thực dân pháp quy định chức sắc 3 kỳ khác nhau ở Bắc kỳ là tiên chỉ; Trung kỳ là hương bản; Nam kỳ là hương bộ; nhưng đều phụ trách công tác tài chính và có hội đồng kỳ mục(Bắc kỳ); đại hội đồng kỳ mục (Nam kỳ); thường trực hội đồng kỳ mục (Trung kỳ) có nhiệm vụ lập ngân sách xã.
Như vậy, lịch sử phát triển của ngân sách xã ở mỗi thời kỳ đều được coi trọng, công tác quản lý mỗi thời kỳ đều có sự đổi mới hoàn thiện. Điều đó khẳng định rằng ngân sách xã là một cấp ngân sách hoàn chỉnh trong hệ thống ngân sách Nhà nước.
Mỗi thời kỳ kỷ luật tài chính ngân sách xã đều được coi trọng và có chế độ quản lý cụ thể quy định quy mô chi ngân sách xã như thời nhà Lê quy định quy mô ngân sách xã đối với xã lớn 50 quan, xã vừa 30 quan, xã nhỏ 20 quan. Có chế độ quản lý quỹ và tiền mặt, xã chỉ được giữ lại 30 quan để chi tiêu, số dư phải gửi vào nhà giàu cất giữ.
Trải qua quá trình phát triển với những thăng trầm của lịch sử, gắn với các triều đại thịnh, suy khác nhau, đến nay Ngân sách xã thực sự trở thành công cụ, phương tiện vật chất bằng tiền có tác dụng to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Điều lệ ngân sách xã ra đời ngày 08/04/1972 của Hội đồng Chính phủ số 64/CP, cũng trong thời gian đó Bộ tài chính ban hành liên tiếp Quyết định số 13/TT/TDT ngày 27/07/1972 quy định chế độ kế toán ngân sách xã và thông tư số 14 TC/TDT ngày 04/11/1972 hướng dẫn thi hành điều lệ ngân sách xã, từ đó ngân sách xã thực sự được quản lý theo luật lệ thống nhất của Nhà nước.
Sự phân cấp rõ ràng trong quản lý thu chi cho xã đã tạo điều kiện cho ngân sách xã khẳng định vị trí, vai trò to lớn của mình trong việc huy động nguồn lực tài chính để trang trải các khoản chi tiêu cho sự nghiệp giải phóng Miền nam thống nhất đất nước.
Sau giải phóng, thời điểm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH ở nông thôn, ngân sách xã đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc xây dựng nông thôn mới. Tiếp đó thông qua nghị quyết 138-HĐBT ngày 19/11/1983 thì vai trò ngân sách xã ngày càng được khẳng định. Đến nay cơ chế quản lý ngân sách xã đã ngày càng được hoàn thiện qua các văn bản mới về quản lý tài chính ngân sách xã nhằm củng cố và khẳng định vai trò của đơn vị hành chính cơ sở.
Như vậy, lịch sử phát triển của ngân sách xã ở mỗi thời kỳ đều được coi trọng, công tác quản lý mỗi thời kỳ đều có sự đổi mới, hoàn thiện. Đến năm 1996 khi luật ngân sách nhà nước được ban hành thì ngân sách xã chính thức được thừa nhận là cấp ngân sách hoàn chỉnh trong hệ thống ngân sách Nhà nước .
1.1.2. Khái niệm - Đặc điểm ngân sách xã .
Trong điều kiện ngày nay việc thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của ngân sách xã được coi là điều tất yếu. Chính vì vậy, trong cơ cấu tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước ở hầu hết các quốc gia đều có ngân sách xã (hoặc vùng); song quan niệm về ngân sách xã lại chưa có sự đồng nhất.
ở nước ta điều lệ ngân sách xã (ban hành ngày 08/04/1972) ghi ngân sách xã là kế hoạch thu chi tài chính của chính quyền cấp xã, để đảm bảo việc chấp hành pháp luật, giữ vững an ninh, trật tự trị an, bảo đảm tài sản công cộng, quản lí mọi hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội trong xã, động viên giám sát các hợp tác xã và công dân thi hành nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Theo điều 4 luật ngân sách nhà nước và thông tư 14-TC/NSNN ngày 08/03/1997 của Bộ tài chính về hướng dẫn quản lý thu-chi ngân sách xã, phường, thị trấn (Sau đây gọi chung là ngân sách cấp xã) là một bộ phận của ngân sách Nhà nước do UBND xã, phường xây dựng, quản lý và HĐND xã quyết định, giám sát thực hiện. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có một khái niệm về ngân sách xã một cách đầy đủ, thống nhất làm cơ sở cho việc xác định các yêu cầu, nhiệm vụ của ngân sách xã sau này.
Do vậy, ngân sách xã được định nghĩa như sau: Ngân sách xã là toàn bộ các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể phát sinh trong quá trình tạo lập phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước cấp cơ sở trong khuôn khổ được phân công quản lý.
Từ định nghĩa đã đưa ra về ngân sách xã ta có thể rút ra một số đặc điểm về ngân sách xã như sau:
Thứ nhất: Ngân sách xã là một quỹ tập trung của cơ quan chính quyền Nhà nước cấp cơ sở. Hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: Huy động nguồn thu vào quỹ (gọi là thu ngân sách xã ) và phân phối sử dụng nguồn vốn của quỹ ( gọi là chi ngân sách xã ) .
Thứ hai : Các hoạt động thu chi của ngân sách xã luôn gắn với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền xã theo luật định, đồng thời luôn chịu sự kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở cấp xã. Chính vì vậy các chỉ tiêu thu chi của ngân sách xã luôn mang tính pháp lý.
Thứ ba: Đằng sau các hình thức thu, chi của ngân sách xã chính là các quan hệ lợi ích giữa một bên là lợi ích chung của cộng đồng các cơ sở mà chính quyền xã là người đại diện với một bên là lợi ích của các chủ thể kinh tế xã hội khác (tổ chức hoặc cá nhân). Các quan hệ này phát sinh trong cả quá trình thu và chi ngân sách xã.
Thứ tư: Các quan hệ thu-chi ngân sách xã rất đa dạng và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng các khoản thu- chi này chỉ được thừa nhận khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ năm: Ngân sách xã vừa là một cấp trong hệ thống NSNN vừa là một đơn vị dự toán. Bởi vì ngân sách xã vừa thực hiện nhiệm vụ thu chi của một cấp ngân sách nói chung (mặc dù nguồn thu và nhiệm vụ chi là rất nhỏ)vừa là đơn vị nhận bổ sung từ ngân sách cấp trên mà không phải cấp bổ sung cho cấp ngân sách khác và sử dụng luôn nguồn vốn đó. Với đặc thù là đơn vị hành chính cấp cơ sở có mối liên hệ trực tiếp với dân, do dân, vì dân, giải quyết các mối liên hệ giữa Nhà nước và nhân dân, cho nên đây là đơn vị hành chính giúp Nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ trực tiếp tới mọi người dân .
1.1.3. Nội dung nguồn thu và nhiệm vụ chi của Ngân sách Xã:
Nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách xã được hình thành dựa trên cơ sở khả năng và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương kết hợp với các nhiệm vụ về quản lý kinh tế-xã hội mà chính quyền xã được phân công, phân cấp đảm nhiệm. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phân cấp quản lý về kinh tế - xã hội với phân cấp quản lý tài chính-ngân sách. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội và sự phân cấp quản lý ngân sách xã mà trong từng thời kỳ cụ thể nguồn thu và nhiệm vụ chi có những thay đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Trong điều kiện hiện nay kể từ khi thực hiện luật ngân sách Nhà nước, nguồn thu, nhiệm vụ chi, của ngân sách được quy định cụ thể tại điều 34 và 35 của luật này và các văn bản pháp quy khác nhằm hướng dẫn thi hành luật này. Cụ thể theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật ngân sách Nhà nước thông qua ngày 20/05/1998 và Thông tư số 118/2000/TT-BTC ngày 22/12/2000 quy định về quản lý ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác ở xã, phường, thị trấn quy định như sau:
1.1.3.1. Nguồn thu của Ngân sách Xã gồm:
+ Các khoản thu mà ngân sách xã được hưởng 100 %:
- Thuế môn bài thu từ các cá nhân, hộ kinh doanh từ bậc 4 đến bậc 6 kể cả số thu khoán (không áp dụng đối với phường).
Các khoản phí, lệ phí quy định thu vào ngân sách xã.
- Chênh lệch thu lớn hơn chi từ các hoạt động sự nghiệp có thu của xã.
- Thu đấu thầu, thu khoán theo mùa vụ từ quỹ đất công ích 5% và hoa lợi công sản khác do xã quản lý.
- Các khoản đóng góp của tổ chức, cá nhân gồm: Các khoản đóng góp theo pháp luật quy định, các khoản đóng góp trên nguyên tắc tự nguyện để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do Hội đồng nhân dân xã quyết định đưa vào ngân sách xã quản lý (không áp dụng đối với phường khoản thu huy động đóng góp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng) và các khoản đóng góp tự nguyện khác.
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và cá nhân ở ngoài nước trực tiếp cho ngân sách xã.
- Thu kết dư ngân sách xã năm trước.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) với ngân sách cấp trên gồm:
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp (tối thiểu để lại cho xã 20%)
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất (chỉ áp dụng cho xã, thị trấn)
- Thuế nhà đất (chỉ áp dụng cho xã, thị trấn)
- Tiền cấp quyền sử dụng đất (chỉ áp dụng đối với xã, thị trấn)
- Thuế Tài nguyên.
- Lệ phí trước bạ nhà đất.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài lá, hàng mã, vàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát sa, ka ra ô kê, kinh doanh chơi gôn, ca si nô, chò chơi bằng máy Giắc-Pốt, kinh doanh vé đặt cược đua ngựa, đua xe.
- Các khoản thu phân chia khác:
Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia cụ thể các nguồn thu trên đây cho ngân sách xã do Uỷ ban nhân dân Tỉnh quy định từ 3- 5 năm phù hợp với tình hình ngân sách của địa phương. Để giảm bớt khối lượng nghiệp vụ, khuyến khích tăng thu; có thể giao chung cho các xã cùng một tỷ lệ.
+ Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên:
- Thu bổ sung cân đối ngân sách được xác định trên cơ sở chênh lệch giữa dự toán chi được giao và dự toán từ các nguồn thu được phân cấp (các khoản thu 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm). Số bổ sung này được ổn định từ 3 đến 5 năm, hàng năm được tăng thêm một số phần trăm trên cơ sở trượt giá, tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng ngân sách của địa phương.
- Thu bổ sung có mục tiêu ( nếu có ) tuỳ theo khả năng ngân sách và chủ trương chung.
Ngoài các khoản thu trên, chính quyền xã không được đặt ra các khoản thu trái với quy định của pháp luật.
1.1.3.2- Nhiệm vụ chi của ngân sách xã.
* Chi thường xuyên.
+ Hoạt động của các cơ quan Nhà nước xã bao gồm:
- Sinh hoạt phí theo mức quy định hiện hành
- Sinh hoạt phí đại biểu Hội đồng nhân dân
- Các khoản phụ cấp khác theo quy định của Nhà nước
- Chi về phúc lợi tập thể, y tế, vệ sinh
- Công tác phí;
- Chi về hoạt động văn phòng như: Tiền nhà, điện nước, thắp sáng, vật liệu văn phòng, bưu phí, điện thoại, hội nghị, chi tiếp tân, khánh tiết.
- Chi mua sắm, sửa chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc.
- Chi khác
+ Các khoản sinh hoạt phí và kinh phí hoạt động của cơ quan Đảng Cộng sản Việt nam của xã sau khi đã trừ đi khoản thu đảng phí theo điều lệ và các khoản thu khác (nếu có).
+ Các khoản sinh hoạt phí và kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội của xã (Mặt trận tổ quốc Việt nam, Đoàn thanh niên CSHCM, Hội cựu chiến binh Việt nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam, Hội nông dân Việt nam). Sau khi trừ các khoản thu theo điều lệ và các khoản thu khác (nếu có).
+ Đóng Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho cán bộ xã và các đối tượng khác theo chế độ hiện hành.
+ Công tác dân quân tự vệ, trật tự an toàn xã hội:
- Huấn luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ và các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách xã theo quy định của pháp lệnh về dân quân tự vệ;
- Đăng ký nghĩa vụ quân sự, tiễn đưa thanh niên đi nghĩa vụ quân sự
- Tuyên truyền, vận động và tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã.
- Các khoản chi khác.
+ Công tác xã hội và hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao do xã quản lý.
- Trợ cấp hàng tháng cho cán bộ xã nghỉ việc theo chế độ hiện hành, chi thăm hỏi các gia đình chính sách, cứu tế xã hội và công tác xã hội khác.
- Hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, truyền thanh do xã tổ chức.
+ Hỗ trợ các lớp bổ túc văn hoá, trợ cấp nhà trẻ, lớp mẫu giáo, kể cả trợ cấp cho giáo viên mẫu giáo và cô nuôi dạy trẻ do xã, thị trấn quản lý (đối với phường do ngân sách cấp trên chi)
+ Sự nghiệp y tế:
- Mua sắm, trang bị hoặc bổ sung đồ dùng chuyên môn phục vụ khám chữa bệnh.
- Phòng bệnh và sự nghiệp y tế khác + Quản lý sửa chữa, cải tạo các công trình phúc lợi, các công trình hạ tầng cơ sở do xã quản lý như: Trường học, trạm y tế, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà văn hoá, thư viện, đài tưởng niệm, cơ sở thể dục thể thao, cầu, đường giao thông, công trình cấp và thoát nước công cộng,... riêng đối với thị trấn còn có nhiệm vụ chi quản lý, sửa chữa cải tạo vỉa hè, đường phố nội thị, đèn chiếu sáng, công viên, cây xanh...
+ Hỗ trợ các hoạt động sự nghiệp có thu của xã.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
* Chi đầu tư phát triển: Chi đầu tư xây dựng các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo sự phân cấp của cấp Tỉnh từ nguồn ngân sách và nguồn huy động đóng góp trên nguyên tắc tự nguyện của các tổ chức, cá nhân cho từng dự án nhất định.
Qua nội dung nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách xã ta thấy chúng bao trùm mọi hoạt động của xã. Do đó tổ chức công tác quản lý ngân sách xã có hiệu quả là việc làm thường xuyên liên tục và khoa học của các nhà quản lý tài chính, qua đó mà thấy được vai trò của cấp ngân sách xã là hết sức quan trọng trong hệ thống ngân sách nhà nước.
1.1.4. Vị trí, vai trò của ngân sách xã trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn hiện nay.
Việc đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước làm thay đổi căn bản vai trò của NSNN. Cũng như NSNN, ngân sách cấp xã là một cấp trong hệ thống các cấp NSNN, cấp xã là tổ chức chính quyền cơ sở của bộ máy quản lý Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu của Nhà nước cơ sở, Nhà nước do dân, vì dân, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó chính quyền cấp xã phải có nguồn tài chính đủ mạnh để góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế- xã hội tại cơ sở. Qua hoạt động thu- chi của ngân sách xã ta thấy được vai trò cụ thể của nó như sau:
1.1.4.1. Ngân sách xã đảm bảo nguồn lực vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của bộ máy chính quyền Nhà nước cấp xã. Trải qua quá trình phát triển của xã hội, Nhà nước ra đời từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp. Nhà nước ra đời đồi hỏi phải có nguồn lực vật chất nhất định để nuôi sống bộ máy và thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội do cộng đồng đối phó. Nguồn lực vật chất này chỉ có thể được đảm bảo từ ngân sách Nhà nước. Ngân sách cấp xã là bộ phận cấu thành nên Ngân sách Nhà nước, do vậy nguồn lực vật chất để nuôi sống bộ máy chính quyền cấp cơ sở thì phần lớn phải do Ngân sách cấp cơ sở đảm nhận đó là ngân sách cấp xã. Để đảm bảo nguồn lực vật chất này cung cấp cho toàn bộ các hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và đời sống của mọi người được đảm bảo, Ngân sách xã phải khai thác triệt để các nguồn thu tại xã theo luật định. Đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho các công việc thuộc chức năng nhiệm vụ theo quy định của luật Ngân sách Nhà nước như : Chi lương, sinh hoạt phí cho các công chức, các khoản chi tiêu quản lý hành chính hay mua sắm trang thiết bị cho văn phòng mới được thực hiện. Do vậy không có các khoản chi này của Ngân sách xã thì bộ máy chính quyền Nhà nước cơ sở không thể tồn tại và phát triển được.
1.1.4.2. Ngân sách xã là công cụ quan trọng để chính quyền xã quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế , văn hoá xã hội tại địa phương.
Với tư cách là chính quyền cấp cơ sở gắn liền với đời sống nhân dân và thực hiện quản lý trực tiếp đối với nhân dân. Do vậy chức năng và nhiệm vụ của ngân sách xã phải thực hiện là luôn đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân trên địa bàn. Trực tiếp liên hệ và giải quyết các công việc của dân trên mọi phương diện theo chính sách chế độ của Nhà nước đặt ra... nhằm đáp ứng các nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Để giải quyế