Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí, nâng cao kết quả kinh doanh tại Ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội- Chi nhánh Thanh Quan

Nghị quyết đại hội Đảng lần VI đã tạo ra bước ngoặt đối với nền kinh tế của đất nước. Từ đây, nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần Nghị quyết, các doanh nghiệp được toàn quyền quyết định các vấn đề cơ bản của sản xuất là sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào;

doc79 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí, nâng cao kết quả kinh doanh tại Ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội- Chi nhánh Thanh Quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời Mở đầu Nghị quyết đại hội Đảng lần VI đã tạo ra bước ngoặt đối với nền kinh tế của đất nước. Từ đây, nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần Nghị quyết, các doanh nghiệp được toàn quyền quyết định các vấn đề cơ bản của sản xuất là sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào; nhà nước cũng không ấn định giá như trước kia nữa mà do quan hệ cung- cầu trên thị trường quyết định. Nhà nước chỉ nắm giữ độc quyền một số ngành nghề then chốt như: ngành điện lực, ngành bưu chính viễn thông, ngành dầu khí, ngành tài chính- ngân hàng và một số ngành khác. Nhưng cho đến nay thì ngành tài chính- ngân hàng không phải là ngành độc quyền nữa mà đã là ngành đa sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu nước ngoài. Nó được xác định là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Vì thế, cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh trên thị trường, mỗi ngân hàng đều phải giải quyết bài toán hiệu quả kinh doanh. Trong đó lợi nhuận được đưa lên hàng đầu, là chỉ tiêu định lượng quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Trên thực tế mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt. Các ngân hàng không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn cạnh tranh phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác như ngành bưu điện, ngành bảo hiểm, công ty tài chính ... Lợi nhuận giống như một miếng bánh lớn và mỗi chủ thể tài chính chiếm được một phần miếng bánh nhỏ. Độ lớn của miếng bánh nhỏ này tuỳ thuộc vào khả năng kinh doanh của chính đơn vị kinh tế đó. Tâm lý chung của người kinh doanh là muốn cho phần lợi nhuận của mình năm sau lớn hơn năm trước hay tối thiểu cũng phải giữ được bằng năm trước. Để mong muốn trở thành thực tế thì không phải ai cũng làm được. Xuất phát từ yêu cầu thực tế cũng như những băn khoăn trăn trở trên, sau khi kết thúc chương trình học tập tại Học Viện Ngân Hàng và 3 tháng được đi vào thực tế, em xin được lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí, nâng cao kết quả kinh doanh tại Ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội- chi nhánh Thanh Quan” ặ Đề tài được kết cấu với ba chương Chương I: Cơ sở lý luận chung về ngân hàng thương mại và cơ chế tài chính của ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng thu nhập,chi phí tài chính và xác định kết quả kinh doanh của NHTM cổ phần nhà Hà Nội Chương III: Một số giải pháp để góp phần tăng thu nhập tiết kiệm chi phí để nâng cao kết quả kinh doanh tại chi nhánh Thanh Quan ặ Phạm vi nghiên cứu là số liệu trong ba năm gần đây nhất. ặ Phương pháp nghiên cứu là phương pháp thống kê, so sánh và phân tích từng khoản mục với nhau và các số liệu giữa các năm với nhau để thấy được những biến động của từng khoản mục và mức độ ảnh hưởng của nó tới tình hình thu nhập, chi phí của chi nhánh Thanh Quan. Tuy nhiên trong thời gian nghiên cứu ngắn, kinh nghiệm thực tế và khả năng bản thân còn hạn chế cho nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em kính mong nhận được sự góp ý chân tình của các thầy cô để bài viết của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Đinh Thanh Hà cHƯƠNG i Cơ sở lý luận chung về ngân hàng thương mại và hoạt động tài chính của nHTM Khái quát về NHTM. 1.1.1: Lịch sử ra đời của NHTM NHTM là một trong năm loại hình ngân hàng trung gian mà các nhà nghiên cứu đã tổng kết được, đó là: NHTM, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng phát triển, các tổ chức tín dụng và hợp tác. Và đây cũng là loại hình chiếm lĩnh một vị trí đặc biệt trong nền kinh tế. Tuy ở mỗi quốc gia có các quan điểm khác nhau về khái niệm NHTM nhưng nhìn chung họ đều thống nhất với nhau: NHTM là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu. Theo quan điểm của các nhà ngân hàng nước ta về NHTM được ghi trong luật các tổ chức tín dụng ban hành tháng 5 năm 1990 như sau: “NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán .” Theo các nhà nghiên cứu thì mầm mống sơ khai của ngân hàng có từ thời trung cổ mà tiền thân của nó là những hiệu kim hoàn. Thời đó những người giầu thường mang tiền bạc tới những tiệm kim hoàn và gửi ở đó để đảm bảo an toàn cho tài sản của họ. Họ sẽ được nhận một chứng thư xác nhận quyền sở hữu về những tài sản đi gửi nhưng đổi lại họ phải trả một mức phí cho hiệu kim hoàn đó. Lúc đầu, những ông chủ đúc vàng dự trữ 100% để chi trả cho khách hàng. Sau một thời gian dài họ nhận thấy rằng luôn luôn có một lượng tiền vàng tồn ở trong kho họ giữ vì bên cạnh những người rút tiền thì cũng có những người khác đem tiền vào gửi. Mặt khác, không phải ai cũng có tiền nhàn rỗi để gửi vào mà có rất nhiều người đang cần vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Từ đó, các chủ hiệu kim hoàn nghĩ ra một kiểu kinh doanh mới là chỉ giữ lại một số lượng nhất định để đáp ứng yêu cầu rút tiền của khách hàng, phần còn lại họ sẽ cho người cần vốn vay. Dần dần thì hoạt động cho vay ngày càng phát triển, vì vậy thay vì thu phí giữ tiền, họ lại trả cho những người gửi một số tiền nhất định nào đó. Hoạt động này ngày càng phát triển và được coi là nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng, và các tiệm kim hoàn dần dần phát triển và hình thành nên ngân hàng. ở thời kỳ đầu, khoảng thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau, đó chính là trung gian thanh toán và phát hành giấy bạc ngân hàng. Sang thế kỷ 18, cuộc cách mạng kinh tế của các nước Tây Âu đã tạo ra một khối lượng hàng hóa khổng lồ. Như vậy, một mặt nó đòi hỏi phải có khối lượng vốn lớn, mặt khác nó thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển. Các nghiệp vụ của ngân hàng như “đi vay”và “cho vay”, làm trung gian thanh toán giữa các chủ thể kinh tế cũng như phát hành giấy bạc ngân hàng diễn ra hết sức sôi nổi. Tuy nhiên các ngân hàng đều có quyền phát hành ra loại giấy bạc của riêng mình đã làm cho có quá nhiều loại tiền lưu thông cùng một lúc. Hơn nữa nhà nước không thể quản lý được khối lượng tiền được phát hành. Trong quá trình phát triển của mình ngân hàng đã được phân hoá thành hai hệ thống.Thứ nhất là nhóm ngân hàngđược phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành, sau gọi là NHTW. Thứ hai là nhóm ngân hàng không được phép phát hàng tiền, chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế, và được gọi là ngân hàng trung gian . Thời kỳ đầu khi hệ thống ngân hàng mới được phân hoá thì các ngân hàng trung gian thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng mà ngân hàng đó có khả năng đáp ứng như : nhận tiền gửi và cho vay, làm trung gian thanh toán. Sau này khi nền kinh tế phát triển hơn thì hoạt động ngân hàng cũng từng bước được hoàn thiện. Dựa vào tính chất kinh doanh và mục đích hoạt động mà người ta chia ra ngân hàng trung gian thành 5 loại : Ngân hàng thương mại. Ngân hàng phát triển. Ngân hàng đầu tư. Ngân hàng chính sách. Các tổ chức tín dụng và hợp tác. Trong 5 loại này thì NHTM là loại hình phổ biến nhất, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế của quốc gia. ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng được khai sinh theo sắc lệnh 15 ngày 6/5/1951 của chủ tịch nước. Mặc dù được ra đời muộn hơn rất nhều so với sự ra đời của các ngân hàng trên thế giới nhưng mô hình tổ chức của nó thì vẫn theo mô hình cũ, lạc hậu, đó là mô hình ngân hàng một cấp. Chỉ đến khi nền kinh tế nước ta được xác định là nền kinh tế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội thì mô hình tổ chức của ngân hàng mới được thay đổi. Sự thay đổi đó được đánh dấu ở Nghị định 53 ra ngày 26/3/1988, theo đó hệ thống Ngân hàng Việt Nam là hệ thống ngân hàng hai cấp: Cấp NHTW đảm nhiệm chức năng độc quyền phát hành tiền; quản lý nhà nước về tiền tệ và tín dụng; và là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối của nhà nước. Cấp thứ hai là các NHTM trực thuộc NHTW có chức năng hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng trực tiếp đối với nền kinh tế. Pháp lệnh NHNN 5/1990 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam. Từ đây hệ thống NHTM Việt Nam bước sang một trang sử mới. 1.1.2. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường NHTM là nơi thu hút tiền nhàn rỗi và cung ứng vốn cho nền kinh tế Trong nền kinh tế, không chỉ có riêng ngân hàng làm nhiệm vụ thu hút lượng tiền nhàn rỗi và cung cấp vốn cho các chủ thể thiếu vốn, nhưng NHTM vẫn là tổ chức thực hiện công việc này hiệu quả nhất. Và đây được coi là chức năng cơ bản nhất của ngân hàng, đồng thời tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Khi thực hiện các chức năng làm trung gian tín dụng NHTM giống như chiếc cầu để nối giữa những người có vốn mà chưa có ý tưởng kinh doanh và những người có ý tưởng kinh doanh nhưng chưa có vốn. Hay nói cụ thể hơn là ngân hàng “đi vay ” để “cho vay”. Ngân hàng thực được việc này dựa trên cơ sở ngân hàng là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ và tín dụng, có khả năng nhận biết khả năng cung và cầu vốn trên thị trường, và đặc biệt là có uy tín khá cao. Dựa vào uy tín của ngân hàng mà những người có tiền đem vào đó để gửi, họ vừa đạt được mục đích là đảm bảo an toàn cho tài sản của mình mà lại vừa có thu nhập. Trên cơ sở đó ngân hàng đã tập hợp được khối tiền nhàn rỗi và cho những người cần vốn vay. Như vậy NHTM đã giúp góp phần tạo được lợi ích cho tất cả các bên. Đối với người vay tiền sẽ thoả mãn được vốn để kinh doanh một cách nhanh nhất, chi phí về thời gian và tiền bạc thấp nhất. Đối với bản thân NHTM thì sẽ kiếm được lợi nhuận từ phần chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền cho vay. Cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh trên thị trường, lợi nhuận này sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Và đối với tổng thể nền kinh tế, chức năng trung gian tín dụng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì các thành phần kinh tế có vốn kịp thời để đáp ứng yêu cầu sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Ngoài ra khi có mặt của NHTM thì quá trình luân chuyển hàng hoá diễn ra nhanh hơn. Như vậy hoạt động “đi vay ”để “cho vay” của NHTM chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Và khi thực hiện tốt chức năng này thì sẽ tạo ra nền tảng vững chắc để NHTM thực hiện các chức năng khác. NHTM là cầu nối giữa thị trường tài chính trong nước và quốc tế. NHTM là đơn vị có chi nhánh rộng khắp không chỉ trong nội bộ một quốc gia mà còn cả ở nước ngoài. Và lợi thế như vậy NHTM dễ dàng thu hút và mở rộng vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước. Đối với những người muốn đầu tư vào nước khác có hai cách: một là đầu tư trực tiếp và hai là đầu tư gián tiếp. Hình thức đầu tư trực tiếp có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng đổi lại người ta phải nghiên cứu nhiều yếu tố như: môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý, cơ sở vật chất hạ tầng... và khả năng thất bại cũng rất cao. Hình thức đầu tư nước ngoài được ưa chuộng hơn là đầu tư gián tiếp, có nghĩa là các nhà đầu tư mua bán cổ phiếu , trái phiếu ... trên thị trường chứng khoán. Mà NHTM là chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán ấy, nếu họ hoạt động tích cực sẽ làm cho thị trường chứng khoán sôi động, và như vậy họ không chỉ lôi kéo người đầu tư trong nước đầu tư mà cả người đầu tư nước ngoài. Mạng lưới hoạt động vượt qua biên giới quốc gia của các NHTM đem lại một lợi thế rất quan trọng khác. Đó là họ có điều kiện để am hiểu về môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, cơ sở vật chất hạ tầng ... của nước sở tại họ hoạt động, từ đây họ có thể cung cấp thông tin đó cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước nhà. Đa phần các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước bị thiếu thông tin hoặc có thông tin nhưng không đầy đủ và hoàn hảo nên dẫn đến có quyết sách sai lầm. Vì vậy, đối với họ những thông tin mà ngân hàng cung cấp sẽ giúp ích cho họ trong quá trình kinh doanh. Không chỉ các doanh nghiệp có lợi mà qua đó các chi nhánh NHTM hoạt động ở nước ngoài vừa thu được phí tư vấn và vừa nâng cao được uy tín. Khi nền kinh tế phát triển thì vai trò này sẽ được đề cao hơn nữa. Vai trò trung gian thanh toán . Vai trò này thực hiện được thì phải dựa trên cơ sở là Ngân hàng làm thủ quỹ cho xã hội. Theo đó thì các NHTM mở tài khoản tiền gửi, thực hiện quản lý tài khoản và tiến hành thu, chi theo lệnh của khách hàng. Nếu càng có nhiều đơn vị, cá nhân mở tài khoản ở ngân hàng thì việc thu chi sẽ càng được thực hiện nhiều ngay trên tài khoản và lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm. Việc giảm lượng tiền mặt trong lưu thông đem lại lợi ích cho nhà nước mà người dân cũng được hưởng ích lợi đó. Mặt khác khi việc thanh toán qua ngân hàng tăng lên sẽ làm cho tốc độ luân chuyển vốn và hàng hoá tăng lên; vốn nhàn rỗi sẽ được tập trung nhiều hơn ở ngân hàng để đầu tư cho nền kinh tế; tăng cường được sự quản lý của nhà nước đối với các chủ thể kinh tế ... Phương thức TTKDTM ra đời không chỉ khắc phục được nhược điểm của phương thức thanh toán bằng tiền mặt mà còn có ý nghĩa to lớn khác. Chính vì thế mà phương thức thanh toán qua ngân hàng là xu hướng phổ biến hiện nay. Nó cũng được coi là chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn minh của đất nước. Người ta thấy rằng càng ở những nước có nền kinh tế phát triển thì tỷ trọng TTKDTM càng lớn 1.1.3 Các nghiệp vụ chủ yéu của NHTM. 1.1.3.1 Các nghiệp vụ thuộc tài sản nợ và vốn. Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ phản ánh nguồn vốn của ngân hàng. Từ sau cuộc suy thoái kinh tế thế giới 1929-1930, phần lớn các NHTM trên thế giới đều chú trọng đến việc quản lý tài sản Có. Tuy nhiên, tới năm 1960 người ta đã giành sự quan tâm đến việc quản lý tài sản Nợ. Người ta nghiên cứu và chia bên tài sản Nợ thành 3 nghiệp vụ như sau: * Nghiệp vụ tiền gửi : w Tiền gửi không kỳ hạn Tiền gửi không kỳ hạn hay còn được gọi là tiền gửi thanh toán mà đặc tính của nó là khách hàng có thể rút bất cứ lúc nào. Đối với loại tiền gửi này mục đích chính của khách hàng là bảo đảm an toàn cho tài sản của họ và sử dụng các tiện ích trên tài khoản đó. Do đó mức lãi suất tiền gửi mà ngân hàng đưa ra hầu như không ảnh hưởng đến số dư và sự biến động trên tài khoản. Đây là nguồn vốn rẻ nhất của ngân hàng vì trước đây ngân hàng không trả lãi cho loại tiền gửi này, ngày nay hầu hết các ngân hàng đều trả lãi, tuy nhiên đó chỉ là lãi suất khuyến khích nên rất thấp. w Tiền gửi có kỳ hạn Với loại này khách hàng được rút tiền ra sau một thời hạn nào đó mà khách hàng đã cam kết với ngân hàng ví dụ như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 24 tháng ... Trước đây, nếu khách hàng đến rút trước thời hạn dù chỉ là một ngày thì ngân hàng không trả lãi. Khi sự cạnh tranh giữa các ngân hàng cao, để thu hút khách hàng thì các ngân hàng đã cho khách hàng rút trước hạn hưởng lãi suất không kỳ hạn. Mức lãi suất là nhân tố hấp dẫn, quyết định đến lượng tiền gửi vào ngân hàng vì mục đích của khách hàng là hưởng lãi suất. Chi phí trả lãi cao nhưng nguồn vốn này ổn định, ngân hàng có thể chủ động lập kế hoạch sử dụng vốn . w Tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi. Cũng giống như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Mục đích của người gửi tiền là hưởng lãi suất cho nên càng đưa ra mức lãi suất cao thì ngân hàng càng có thể thu hút được nhiều vốn hơn. ở Việt Nam có 3 loại tiền gửi tiết kiệm sau: + Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn : về bản chất thì giống tiền gửi không kỳ hạn tuy nhiên khách hàng không được hưởng các dịch vụ thanh toán (trên tài khoản loại này ) nên số dư của nó ít biến động và khách hàng được hưởng mức lãi suất nhất định . + Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ được rút tiền sau một thời hạn nhất định. Cũng giống như tiền gửi tiết kiệm, yếu tố lãi suất sẽ quyết định đến lượng vốn huy động, lãi suất cao sẽ kích thích người dân tiết kiệm tiêu dùng để gửi vào ngân hàng. + Tiền gửi tiết kiệm có mục đích : thường là loại tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích lớn như: xây nhà ở, mua ô tô xịn ... Ngân hàng còn đưa ra một số ưu đãi cho loại hình tiền gửi này là ngoài việc được hưởng lãi, khách hàng còn được hỗ trợ thêm tiền nếu có nhu cầu. Xét trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì bộ phận tiền gửi chiếm một tỷ trọng lớn. Bộ phận này có ý nghĩa rất quan trọng vì ngoài ưu thế là chi phí rẻ và nguồn vốn tương đối ổn định thì tỉ trọng của nó còn thể hiện uy tín của ngân hàng. Tất cả các ngân hàng đều quan tâm đến phát triển nghiệp vụ này. *Nghiệp vụ đi vay wPhát hành GTCG Để thu hút được tối đa nguồn vốn từ hình thức này các ngân hàng thường đưa ra nhiều loại hình đó là: phát hành theo mệnh giá; phát hành theo hình thức chiết khấu. Trong từng loại ngân hàng còn chia nhỏ ra theo kỳ hạn trả lãi khác nhau để phù hợp với mọi đối tượng khách hàng Cùng với nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ này cũng thuộc nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng. Khi áp dụng hình thức phát hành GTCG để huy động vốn thì ngân hàng sẽ có ba điểm thuận lợi. Thứ nhất là ngân hàng không phải duy trì DTBB nếu chỉ phát hành GTCG có thời hạn dưới một năm. Thứ hai là ngân hàng sẽ chủ động về khối lượng vốn huy động hơn là nhận tiền gửi. Thứ ba là khi phát hành GTCG ngân hàng đã ấn định thời gian đáo hạn của nó cho nên ngân hàng cũng giữ vị thế là người chủ động về thời gian huy động. Thông thường việc phát hành GTCG là để phục vụ một mục đích đặt ra trước đó của ngân hàng. Nhận thấy các ưu điểm trên nên càng ngày các ngân hàng càng chú trọng đến nghiệp vụ huy động vốn loại này. wVay từ NHTW Đây là nguồn vốn thường xuyên nhưng hết sức cần thiết đối với các NHTM. Nguồn vốn này đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM khi không vay được từ các nguồn khác, đôi khi nó là phao cứu hộ khi các NHTM đang ở bên bờ vực sụp đổ. Thông qua các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các GTCG, cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các GTCG ngắn hạn khác ... NHTW thực hiện tái cấp vốn đối với các NHTM. Đây là một nguồn để NHTM tạo nguồn vốn cho mình nhưng thông qua đó NHTW quản lý vĩ mô đối với các NHTM và thực hiện chính sách tiền tệ đã đặt ra. wVay từ các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác Chi phí cho nguồn vốn này rất đắt, các ngân hàng chỉ vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng khi không thể huy động từ các nguồn khác. Nguồn vốn này không chỉ có chi phí cao mà thường kém ổn định nên đối với loại này ngân hàng thường vay trong thời gian ngắn, phổ biến là vay qua đêm. Trong quá trình hoạt động của mình thì các đều phải sử dụng nghiệp vụ này, tuy nhiên mức độ sử dụng nhiều hay ít lại phụ thuộc vào từng ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể nhưng nói chung càng sử dụng ít càng tốt. wCác nguồn vốn khác của ngân hàng Đó là đi vay từ các ngân hàng nước ngoài, vay từ những công ty mẹ của ngân hàng( những công ty nắm giữ ngân hàng ); phát hành hợp đồng mua lại ... ở các nước phát triển thì nghiệp vụ này mới phát sinh, còn các NHTM ở những nước đang phát triển như Việt Nam thì hầu như không có và nếu có cũng không đáng kể. * Vốn của ngân hàng Cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động trên thị trường thì phải tự tạo cho mình một lượng vốn nào đó, mức vốn này được gọi là VTC. Tuỳ từng ngành nghề và tuỳ từng quốc gia mà pháp luật quy định chủ doanh nghiệp phải có hay không phải có một lượng vốn tối thiểu nào đó. Riêng với ngành ngân hàng thì tất cả các quốc gia đều quy định phải có vốn pháp định. Vốn pháp định là một phận của VTC vì VTC còn bao gồm cả quỹ dự trữ và vốn coi như tự có. Quỹ dự trữ của ngân gồm có quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Quỹ dự trữ này được trích ra từ lợi nhuận sau thuế của ngân hàng với hai mục đích: mục đích thứ nhất là đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh vì đây chính là nguồn bù đắp khi ngân hàng thực sự gặp rủi ro; mục đích thứ hai là làm tăng thêm nguồn VTC cho ngân hàng. Đây là một trong số các chỉ tiêu để đánh giá uy tín của một ngân hàng. Còn vốn coi như tự có bao gồm lợi nhuận chưa chia, các quỹ