Đề tài Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu quế ở Công Ty xuất nhập khẩu tổng hợp I- Hà Nội

Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế, các quốc gia tham gia ngày một tích cực vào quan hệ kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh doanh quốc tế với các hình thức đa dạng và phong phú đang trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong đó hình thức xuất nhập khẩu được coi là “chiếc chìa khoá” mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của một nước khi tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế.

doc88 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu quế ở Công Ty xuất nhập khẩu tổng hợp I- Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cảm ơn Để hoàn thành được đề tài nay ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhân được nhiều sự động viên, đóng góp, giúp đỡ quý báu. Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Anh Tuấn đã tận tình hướng dẫn trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn ban giám đốc, phòng nghiệp vụ 7, phòng tài vụ- Công Ty XNK tổng hợp I Hà Nội đã giúp đỡ trong việc thu thập số liệu và nhận thức tình hình thực tế, phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Do lần đầu tiên tiếp xúc với thực tiễn hoạt động kinh doanh xuất khẩu của một Công Ty và do trình độ có hạn nên đề tài này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của phòng nghiệp vụ 7- xí nghiệp xuất khẩu quế của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I, các thầy cô và bạn bè trong khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế. Lời nói đầu Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế, các quốc gia tham gia ngày một tích cực vào quan hệ kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh doanh quốc tế với các hình thức đa dạng và phong phú đang trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trong đó hình thức xuất nhập khẩu được coi là “chiếc chìa khoá” mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của một nước khi tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế. Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu sẽ có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp CNH- HĐH. Góp phần quan trọng đưa nền kinh tế cất cánh vào đầu của một thiên niên kỷ mới. Vì vậy, đảng và Nhà Nước đã đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác xuất nhập khẩu và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn phải thực hiện. Trước yêu cầu đó, thời gian qua cùng với các doanh nghiệp khác Công Ty XNK tổng hợp đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động xuất khẩu chung của đất nước. Quế là một mặt hàng nông sản, là mặt hàng khá mới trong doanh mục kinh doanh xuất nhập khẩu của Công Ty được Công Ty rất chú trọng và được coi là mặt hàng có chiến lược quan trọng. Xuất khẩu quế đã chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng giá trị của Công Ty nói riêng và của Việt Nam nói chung. Tuy mới tham gia vào đầu tư xuất khẩu quế, nhưng Công Ty đã thu được những thành tựu đáng khích lệ đó là: Mở rộng thị trường, tạo được sự tin cậy đối với các bạn hàng trên thế giới, góp phần cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên và mặt hàng này chiếm một tỷ lệ không nhỏ tới toàn bộ kim ngạch xuất khẩu quế của Việt Nam. Mặc dù vậy, bên cạnh những thành tựu đã đạt được Công Ty còn gặp rất nhiều khó khăn cần giải quyết. Đó là, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao, giá trị hàng xuất khẩu thường thấp hơn giá cả trên thị trường quốc tế, Công Ty chủ yếu là xuất khẩu qua sơ chế và xuất khẩu thường phải qua trung gian đã gây lên một thiệt hại không nhỏ cho Công Ty. Công tác tìm nguồn hàng từ khâu thu mua đến khâu xuất khẩu chưa được đồng bộ, thống nhất. Bởi thế, để Công Ty phát huy hết tiềm năng, xứng đáng là một doanh nghiệp Nhà Nước lớn thuộc bộ thương mại thì việc nhình nhận lại thực trạng kinh doanh xuất khẩu quế với những đánh giá chân thực về những thành tựu và hạn chế, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu quế là một yêu cầu cần thiết. Với lý do đó, đề tài “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu quế ở Công Ty XNK tổng hợp I- Hà Nội” được tác giả lựa chọn làm nội dung nghiên cứu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp. ý nghĩa nghiên cứu: Nhận thức rõ vai trò hoạt động kinh doanh xuất khẩu quế đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công Ty nói riêng và của Việt Nam nói chung. Trong quá trình nghiên cứu, kiến thức được bổ sung góp phần nâng cao khả năng trong công tác thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu: Khi nghiên cứu tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp thống kê kinh tế. Phương pháp tiếp cận thị trường. Phương pháp mô hình. phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề chỉ nghiên cứu tình hình phát triển chung của Công Ty và tình hình kinh doanh xuất khẩu quế của Công Ty mà không xem xét đến các khía cạnh khác. cấu trúc của chuyên đề: Ngoài phần mởi đầu và phần kết luận, chuyên đề thực tập tốt nghiệp được trình bày thành 3 chương. Chương I : Vai trò và nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Chương II : tình hình kinh doanh xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp I. Chương III : một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu quế của Công Ty XNK tổng hợp I-Hà Nội. Chương I Vai trò và nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu I kinh doanh xuất khẩu và vai trò của kinh doanh xuất khẩu. 1. Khái niệm kinh doanh xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện so sánh. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia và phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này và thực tế cũng cho thấy nếu một quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mình, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giờ có cơ hội vươn lên để khẳng định vị trí của mình và nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển, tuy hình thức cơ bản đầu tiên là trao đổi hàng hoá giữa các nước nhưng hiện nay xuất khẩu đã được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến xuất khẩu tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị đơn giản cho đến những máy móc công nghệ cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về điều kiện không gian và thời gian nó có thể chỉ diễn ra trong một thời gian rất ngắn nhưng cũng có thể kéo dài nhiều năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay của nhiều quốc gia khác nhau. 2. Vai trò của kinh doanh xuất khẩu. Phương thưc cơ bản nhất để mở rộng hoạt động của doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài là thông qua xuất khẩu. Kinh doanh xuất khẩu cũng là một hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của doanh nghiệp. Hoạt động này tiếp tục cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình. có được vị trí như vậy là do xuất khẩu có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết xuất khẩu giải quyết vấn đề ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo nguồn vốn để nhập khẩu. ở những nước kém phát triển, phần lớn các doanh nghiệp nằm trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ, thừa lao động phổ thông, thiếu lao động đã qua đào tạo. Để giải quyết tình trạng này thì buộc họ phải nhập từ bên ngoài vào những yếu tố mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng nhưng làm được điều đó thì cần phải có một khối lượng ngoại tệ rất lớn. Khả năng sản xuất kém Thiếu vốn Công nghệ lạc hậu Có thể nói đây là “vòng luẩn quẩn” mà các doanh nghiệp tại các nước này gặp phải. Nếu thiếu vốn, doanh nghiệp không thể nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, tăng khả năng sản xuất, tạo thế cạnh tranh trên thị trường và cái “vòng luẩn quẩn” đó sẽ ngày càng khép chặt hơn, thiếu sẽ càng thiếu hơn, yếu sẽ càng yếu hơn. Vốn? đây là câu hỏi hóc búa nhất không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn rất nan giải đối vớ chính phủ và các nhà hoạch định chính sách. Vì vậy, một trong những vật cản chính trong quá trình phảt triển của doanh nghiệp là thiếu tiềm lực về vốn. Thực tế cho thấy để có vốn một doanh nghiệp có thể huy động nội lực và ngoại lực. Nguồn vốn huy động từ bên ngoài là vô cùng quan trọng, song để huy động được nguồn vốn này doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Mọi cơ hội doanh nghiệp được đầu tư hay vay nợ chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng chả nợ của Công Ty, trong đó họ rất chú ý đến hoạt động xuất khẩu. Và cuối cùng, thì bằng cách này cách khác doanh nghiệp cũng phải hoàn lại vốn cho đối tác. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu. Với đặc điểm của đồng tiền thanh toán phần lớn là ngoại tệ đối với một bên hoặc hai bên, xuất khẩu làm tăng ngoại tệ cho doanh nghiệp, tạo vên để đổi mới máy móc thiết bị nhập công nghệ mới hiện đại từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa và tạo năng lực sản xuất mới. Vì vậy, xuất khẩu thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển làm tăng C, giá trị máy móc thiết bị và làm giảm V, giá trị lao động cấu thành trong giá trị của hàng hoá chuyển dịch cơ cấu tư bản. Từ đó xuất khẩu tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và giúp doanh nghiệp tăng khả năng khai thác lợi thế so sánh của quốc gia. Có thể nói, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của doanh nghiệp. Tóm lại, xuất khẩu là phương tiện quan trọng thu hút lượng ngoại tệ, tạo vốn giúp doanh nghiệp thực hiện tái đầu tư mở rộng sản xuất không những về chiều rộng mà còn về chiều sâu. Thứ hai, xuất khẩu là bước quan trọng để doanh nghiệp xâm nhập và hội nhập vào thị trường thế giới, một thị trường rộng lớn và đa nhu cầu luôn là một thị trường nhiều triển vọng của doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mỗi danh nghiệp là lợi nhuận song lợi nhuận sẽ chỉ đạt được thông qua thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Vì vậy hiểu đầy đủ nhu cầu của khách hàng là cơ sở để doanh nghiệp tìm cách thoả mãn tối đâ nhu cầu đó. Điều này lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, vĩ mô và vi mô. Song một thực tế không thể phủ nhận là việc vươn ra thị trường quốc tế làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô khách hàng, cung cấp sản phẩm cho một thị trường rộng lớn đa dân tộc, đa nhu cầu. Đặc biệt, tại thị trường quốc tế sức mua của khách hàng rất phong phú, đa dạng. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, đề có sức mua khác nhau tuỳ theo điều kiện như : Thu nhập, sức mua của đồng tiên, tập tính, thói quen tiêu dùng. Và đây chính là căn cứ giúp doanh nghiệp lựa chọn được những đoạn thị trường phù hợp nhằm tối ưu hoá kết quả kinh doanh. Tham gia hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có thể giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất nhờ quy mô. Sản lượng Chi phí Tuy nhiên, lý thuyết này cũng chỉ ra rằng doanh nghiệp chỉ có lợi thế nhờ quy mô khi tăng sản lượng tới một giới hạn cho phép. Và những sản phẩm này phải được thi trường chấp nhận, tiêu thụ. Thông qua xuất khẩu, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu của khách hàng, cũng như mức độ chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp, từ đo áp dụng hiệu quả lý thuyết nhờ quy mô. Đặc biệt, thông qua hợp đồng xuất khẩu, khả năng vượt trội của doanh nghiệp có thể khai thác được. Bởi có những sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ cung cấp cho thị trường trong nước mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường nước ngoài, hoặc thị trường trong nước không thể tiêu thụ được những sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ tận dụng khả năng vượt trội về chất lượng, uy tín sản phẩm của doanh nghiệp. Vươn ra chiếm lĩnh thị trường thông qua hoạt động xuất khẩu. Như vây, doanh nghiệp sẽ khắc phục quy mô nhỏ bé của thị trường nội địa hay tình trạng trì trệ, giảm sút của nó trong những giai đoạn kinh doanh nhất định. Đồng thời khả năng phân tán rủi ro cũng là một ưu điểm rất lớn mà xuất khẩu khuyến khích doanh nghiệp tham gia lĩnh vực này. Nói tóm lại, hoạ động xuất khẩu giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu cuối cùng và bao trùm của mình là tăng lợi nhuận bằng việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm, tăng doanh số bán, hạn chế rủi ro. Thứ ba, thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới (về giá cả, uy tín, chất lượng). Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, hình thành một cơ cấu sản xuấtphù hợp với thị trường, tạo ra những sản phẩm được tiêu chuẩn hoá cao nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường quốc tế. Thực hiện Marketing quốc tế với những nỗ lực về chính sách giá cả, phân phối, xúc tiến nhằng tăng khả năng thu nhập vào các thị trường lớn. Đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất với giá thị trường của nước mình nhằn tăng khả năng phát triển sản phẩm của mình trên thị trường thế giới. Từ đó tái đầu tư phát triên sản xuất đặc biệt, xuất khẩu cũng buộc các doanh nghiệp luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, đây là một yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Và cuối cùng, một vai trò đặc biệt quan trọng nữa của hoạt động xuất khẩu đó là thông qua xuất khẩu doanh nghiệp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của mình. Con người luôn là chủ thể trong các quan hệ xã hội, vì vậy doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải có nguồn nhân lực đấp ứng yêu cầu đặt ra trong kinh doanh. Hoạt động xuất khẩu giúp thu hút nhiều lao động và việc làm, từ đó có thể tuyển lựa được một đội ngũ lao động có khả năng đáp ứng được nhu cầu công việc có chất lượng và hiệu quả. Đặc biệt doanh nghiệp tham gia xuất khẩu còn nâng cao đời sống của mọi cá nhân trong doanh nghiệp-đây chính là động lực để người lao đông làm việc có chất lượng-nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Hơn thế nưa, do các điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại. Nếu trình độ của người lao động của toàn doanh nghiệp nói chung và trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý nói riêng được nâng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc tế. Tuy nhiên, song song với cơ hội cũng là những thách thức mà doan nghiệp phải đối mặt. Những thách thức này không thể làm nản lòng và hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp ra thị trưoừng nước ngoài, ngược lại điều đó buộc các doanh nghiệp phải nhận thức sự cần thiết, hiệu quả để thâm nhập thị trường nước ngoài. Tóm lại, hoạt động xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp chuyên doanh XNK. II. Nội dung của hoạt động KINH DOANH xuất khẩu. Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu thực tế cũng tương tự như một hoạt động mua bán trong nước nhưng có nhiều yếu tố cơ bản và phức tạp hơn do có yếu tố nước ngoài, bởi vậy doanh nghiệp xuất nhập khẩu muốn hoạt động có hiệu quả thì cần: 1.Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đề ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ thông tin cần thiết về thị trường của mình từ đó có thể ra những quyết định kinh doanh chín xác và hiệu quả. Do vậy , nghiên cứu thị trường đang ngày một đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu. Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thì trường của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó, tức là những khách hàng đang mua hoặc có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp đó. Khi vận dụng khái niện trên cho thị trường thế giới thì những điểm nêu trên càng rõ nét hơn, sự khác biệt và đa dạng càng trở lên sâu sắc hơn. Do vậy thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng quốc tế tiềm năng của doanh nghiệp dó. Theo khái niệm trên thì số lượng và cơ cấu nhu cầu của khách hàng nước ngoài đối với sản phẩm cuả doanh nghiệp cũng như sự biến động của các yếu tố đó theo không gian và thời gian là đặc trưng cơ bản của thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Số lượng và cơ cấu nhu cầu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vĩ mô và vi mô đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nghiên cứu tỉ mỉ. Thật vậy, thị trường chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau, thường là đa dạng và phong phú hơn nhiêu so với thị trường nội địa các nhân tố này có trường hợp được thể hiện rõ ràng song cũng có trường hợp rất tiềm ẩn, khó năm bắt, việc định dạng các nhân tố này cho phép doanh nghiệp xác định rõ những nội dung cần đến ngành nghiên cứu trên thị trường quốc tế. Nó cũng là căn cứ để lựa chọn thị trường, cách thức thâm nhập thị trường và các chín sách marketing khác, một cách khái quát nhất việc nghiên cứu thị trường quốc tế được tiến hành theo các nhân tố ảnh hưởng sau: 1.1 Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu: Đó là những yếu tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng chung trên thế giới là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt các hàng rào ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế, nhưng các nhà kinh doanh luôn phải đối diện với các hạn chế thương mại khác như thuế quan, hạn ngạch, cấm vận hay hàng rào phi thuế quan như giấy phép nhập khẩu những sự quản lý điều tiết định hình như phân biệt đối xử tiêu chuẩn sản phẩm đối với doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác các liên kết kinh tế vừa tạo lên những cơ hội song cũng tạo lên những thách thức đối với những doanh nghiệp tham gia xuất khẩu định thâm nhập vào thị trường đó. Như vậy nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu bước đầu sẽ cho doanh nghiệp một cái nhìn tổng quát trước khi đưa ra quyết định kinh doanh của mình. 1.2 Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế. Khi xem xét các thị trường nước ngoài các nhà kinh doanh phải nghiên cứu nền kinh tê của từng nưóc với ba đặc tính phản ánh sự hấp dẫn của một nước xét như một thị trường: - Trước hết là cấu trúc Công Nghiệp của nước đó. Cấu trúc Công Nghiệp của một nước định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, mức lợi tức và mức độ sử dụng nhân lực, có thể phân biệt các nước thành bốn loại cấu trúc như sau: + Nền kinh tế tự cấp tự túc: ở đó tuyệt đại dân cư làm Nông Nghiệp đơn giản. Họ tiêu thụ hầu hết sản phẩm làm ra và trao đổi số còn lại để lấy những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác. Đây là thị trường ít hấp dẫn đối với các nhà xuất khẩu. + Nền kinh tế xuất khẩu nguyên liệu thô: Các nước này có một hay nhiều loại tài nguyên phong phú nhưng lại nghèo ở phương diện khác, phần lớn thu nhập là nhờ xuất khẩu tài nguyên. Đây là những thị trường rất hấp dẫn đối với trang thiết bị khai thác dụng cụ va nhiên liệu, thiết bị xử lý và phương tiện vận chuyển. + Nền kinh tế đang Công Nghiệp hoá: Tại các nước này Công Nghiệp chế biến chiếm từ 10-20% tổng sản phẩm quốc dân. Khi phát triển Công Nghiệp chế biến các nước này cần nhập khẩu nhuyên liệu dệt, thép, cơ khí nặng, Công Nghiệp hoá tạo ra một tầng lớp giầu có mới và một tầng lớp trung lưu đang phát triển có nhu cầu về các loại hàng hoá mới, chủ yếu là hàng nhập khẩu. + Nền kinh tế Công Nghiệp hoá: Đây là những nước xuất khẩu nhiều hàng xuất khẩu chế biến và vốn đầu tư. Họ mua bán sản phẩm chế biến và xuất khẩu sang các nước kém phát triển để đổi lây nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế. Các hoạt động Công Nghiệp rộng lớn và đa dạng cùng một từng lớp trung lưu đông đảo tạo lên những thị trường hấp dẫn đối với mọi loại sản phẩm. - Đặc tính thứ hai về kinh tế là phân phố thu nhập: Sự phân phố thu nhập của một nước bị chi phối bởi cấu trúc Công Nghiệp song còn chịu tác độngcủa nhân tố chính trị. Thu nhập bình quân đầu người của một nước sẽ phản ánh khả năng thanh toán của quốc gia đó cho những sản phẩm tiêu dùng mà họ nhập khẩu. - Đặc tính thứ ba là động thái của các nền kinh tế. Các nước trên thế giới đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau được đặc trương bằng các tốc độ tăng trưởng khác nhau. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đáng kể tới tổng mức nhu cầu của thị trường và tổng mức nhập khẩu của sản phẩm. 1.3 Nghiên cứu các nhân tố từ môi trường chính trị luật pháp: Các quốc gia rất khác nhau về môi trường chính trị, luật pháp. Do đó khi xem xét khả năng mở rộng hoạt động sang một thị trường nước ngoài cần chú ý tới một số nhân tố cơ bản sau: - Thái đội đối với các nhà kinh doanh nước ngoài: Một số nước rất, khuyến khích thực sự đối với các nhà đầu tư nước ngoài, còn một số nước khác lại có thái độ thù địch. Do vây, doanh nghiệp có thể gặp nhiều thuận lợi với luật khuyến khích đầu tư, tinh giảm về các luật về cấp giấy phép và các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Song cũng có thể gặp
Tài liệu liên quan