Đề tài Một số giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu của công ty hoá dầu PETROLIMEX

Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra rất mạnh mẽ và khẩn trương. Hiện nay hội nhập kinh tế với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới đang là một thách thức, đồng thời cũng là cơ hội phát triển kinh tế cho quốc gia nào biết khai thác và sử dụng có hiệu qủa nhất lợi thế của mình. Trong văn kiện đại đại hội Đảng 9, Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ ngoại giao, nhằm một trong những mục đích chính là đẩy mạnh xuất khẩu, tăng GDP cho đất nước.

doc96 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1327 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu của công ty hoá dầu PETROLIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang Lời nói đầu Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra rất mạnh mẽ và khẩn trương. Hiện nay hội nhập kinh tế với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới đang là một thách thức, đồng thời cũng là cơ hội phát triển kinh tế cho quốc gia nào biết khai thác và sử dụng có hiệu qủa nhất lợi thế của mình. Trong văn kiện đại đại hội Đảng 9, Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ ngoại giao, nhằm một trong những mục đích chính là đẩy mạnh xuất khẩu, tăng GDP cho đất nước. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thường phức tạp hơn rất nhiều so với kinh doanh trên thị trường nội địa, vì quy mô thị trường rất rộng lớn, khjó kiểm soát, khoảng cách địa lý lớn doanh nghiệp khó cập nhật được thông tin từ thị trường, khác nhau về văn hoá tiêu dùng, thêm vào đó lại phải tuân thủ tập quán và thông lệ quốc tế, luật pháp quốc gia khác. Nhưng đổi lại doanh nghiệp có một thị trường rộng lớn, với sức mua lớn thuận lợi cho việc kinh doanh. Kinh doanh trên thị trường quốc tế, doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của đối thủ trong và ngoài nước.Vậy một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải nỗ lực chiến thắng trong cạnh tranh, phải tiến hành công tác phát triển thị trường. Đó là yêu cầu thiết yếu trong kinh doanh bởi lẽ sự chiếm lĩnh thị trường sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu cơ bản trong kinh doanh là lợi nhuận. Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng đến vấn đề nghiên cứu phát triển thị trường song vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn khi thực hiện.Xác định đúng phương hướng và giải pháp phát triển thị trường phù hợp với tình hình hết sức khó khăn, huy động và phân bổ các nguồn lực để thực hiện kế hoạch lại càng khó khăn hơn. Hiện nay hoạt động phát triển thị trường chưa thực sự đem lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp. Dầu nhờn không phải là một mặt hàng mang tính thuyền thống, nó thực sự phát triển khi nước ta thực hiện mở cửa nền kinh tế. Công nghiệp hoá hiện đại hoá, được đẩy mạnh, các nhà máy các khu công nghiệp mọc lên ở khắp nơi, các phương tiện giao thông đi lại ngày càng được trang bị hiện đại. Sự phát triển đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái. Người ta ngày càng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề môi trường và chất lượng môi trường tự nhiên. Các vấn đề về ô nhiễm môi trường, thiếu năng lượng cần được có sự quan tâm của các doanh nghiệp. Mặt hàng dầu nhờn đã góp phần hạn chế sự tác động đến môi trường của các loại động cơ. Nhu cầu về sản phẩm dầu nhờn ngày càng cao cùng với sự phát triển của kinh tế. Tuy vậy mặt hàng dầu nhờn ít được chú ý. Công ty hoá dầu mới chỉ chú trọng đến thị trường trong nước hoặc mới chỉ dừng lại ở việc xuất khẩu sang một số nước lân cận. Sản phẩm dầu nhờn ngày càng có nhu cầu cao trên thị trường thế. Đẩy mạnh xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, mang lại sự phát triển lâu dài và bền vững cho doanh nghiệp nếu biết khai thác các cơ hội của thị trường đồng thời tận dụng khả năng và thế mạnh của mình. Thông qua xuất khẩu, sản phẩm hoá dầu sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Điều đó giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng và uy tín của mình trên thị trường đồng thới cũng đòi hopỉ doanh nghiệp phải tố chức sản xuất khoa học hợp lý, nâng cao chất lượng hạ giá thành. Xuất phát từ ý nghĩa to lớn của vấn đề nghiên cứu, cùng với sự hướng dẫn tận tình của Thạc sỹ Nguyễn Quang Huy, em xin chọn đề tài:"Một số giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu của công ty hoá dầu PETROLIMEX". Trên cơ sở những kiến thức đã được lĩnh hội ở nhà trường, cơ quan thực tập và những hiểu biết của bản thân, bài báo cáo thực tập của em gồm ba chương: ChươngI : Vấn đề cơ bản về phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng thị trường dầu nhờn của công ty hoá dầu PETROLIEX Chương III: Một số biện pháp phát triển thị trường dầu nhờn của công ty hoá dầu PETROLEX Do còn nhiều hạn chế trong nhận thức và thời gian nên chuyên đề thực tập của em không thể tránh khỏi những thiếu sót rất mong được bạn đọc đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn, gần gũi thực tế hơn. Em xin cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của cán bộ phòng kinh doanh dầu nhờn của công ty hoá dầu PETROLIMEX, đác biệt là sự quan tâm hướng dẫn giúp đỡ tận tình của TH.S Nguyễn Quang Huy đã giúp đỡ em hoàn thành tốt bài báo cáo này. Chương I Những vấn đề cơ bản về phát triển thị trường Xuất KHẩu của doanh nghiệp Khi nước ta thực hiện chuyển hướng nền kinh tế sang kinh tế thị trường và thực hiện chính sách kinh tế mở thì tính hiệu quả cuả hoạt động kinh doanh được đặt lên hàng đầu. Ngày nay, khi mà quyền quyết định thuộc về khách hàng thì vấn đề tiêu thụ sản phẩm trở lên hết sức gay gắt. Khác hẳn với trước đây, giờ đây trên thị trường có rất nhiều người bán với các sản phẩm tương tự nhau để thoả mãn nhu cầu khách hàng và những nhu cầu đó ngày càng yêu cầu thoả mãn ở mức độ cao hơn. Yếu tố cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Do vậy để tồn tại trên thị trường đặc biệt là thị trường kinh doanh quốc tế mỗi doanh nghiệp cần phải làm tốt công tác phát triển thị trường. Muốn làm được điều đó trước hết phải hiểu được bản chất của thị trường, nó bao gồm những uếy tố nào, thị trường xuất khẩu có điểm khác gì với thị trường trong nước, cần phải làm gì để tồn tại và phát triển trên thị trường... Xuất phát từ những đòi hỏi đó, trong phạm vi chương sẽ trình bày lý luận làm cơ sở cho hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu. I. Khái quát chung về thị trường xuất khẩu Xuất khẩu là một trong những định hướng phát triển kinh tế cơ bản của Nhà nước, là hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế lớn, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Để thực hiện hoạt động này một cách suôn sẻ trước tiên chúng ta cần phải biết xuất khẩu là gì, vai trò của xuất khẩu và các hình thức xuất khẩu chủ yếu. Xuất khẩu là việc buôn bán hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài trên cơ sở sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ mang lại lợi ích cho các quốc gia, do đó các quốc gia trên thế giới đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong mọi lĩnh vực từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị và cả công nghệ kỹ thuật cao thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ. 1. Khái niệm thị trường và thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp 1.1 Khái niệm thị trường Cùng với sự phát triển của thị trường, cũng đã có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển về thị trường thì thị trường là cái chợ mà người mua và người bán thực hiện hành vi trao đổi của mình. Trong khái niệm thị trường theo quan điểm cổ điển thì 3 khái niệm người mua, người bán, hàng hoá xuất hiện trong cùng một không gian và thời gian và cùng một địa điểm nhất định. Khi sản xuất phát triển nó làm cho quá trình lưu thông trở lên phức tạp, các quan hệ mặt hàng trao đổi cũng trở lên đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Khái niệm thị trường cổ điển xem ra không còn phù hợp nữa, nó tỏ ra không phản ánh được đầy đủ bản chất của thị trường trong điều kiện sản xuất xã hội phát triển ở mức độ cao hơn. Do đó các quan niệm hiện đại về thị trường đã ra đời thay thế các quan niệm cũ không còn phù hợp. Theo quan điểm hiện đại thì thị trường là quá trình người mua và người bán tác động qua lại để xác định giá cả hàng hoá dịch vụ, lưu thông tiền tệ và tổng thể các quan hệ giao dịch mua bán hàng hoá và dịch vụ. Theo quan điểm hiện đại có thể nói thị trường là tập hợp các khách hàng có nhu cầu, có khả năng thanh toán, nhưng chưa được thoả mãn và đang sẵn sàng chờ đợi được đáp ứng nhu cầu của mình. Xét trên tầm vĩ mô, thị trường được xem là tổng hợp của tổng cung, tổng cầu và giá cả của các loại hàng hoá trên thị trường. Đứng trên góc độ quản lý của doanh nghiệp, khái niệm thị trường phải được gắn với các tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường như người mua, người bán, người phân phối... với những hành vi cụ thể của họ. Những hành vi này không phải bao giờ cũng tuân theo qui luật cứng nhắc mà dựa trên những giả thiết về tính hợp lý trong tiêu dùng. Hành vi cụ thể của người mua và người bán đối với sản phẩm cụ thể còn chịu tác động của yếu tố tâm lý và điều kiện giao dịch. 1.2 Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp Trong khi kinh doanh ta cần mô tả một cách cụ thể hơn từ góc độ kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, chúng ta có thể phân tích thị trường của doanh nghiệp. Mc Carthy đã định nghĩa: "Thị trường của doanh nghiệp được hiểu là một nhóm các khách hàng tiềm năng với nhu cầu tương tự nhau và người bán đưa ra các sản phẩm khác nhau với các cách thức khác nhau để thoả mãn nhu cầu đó". Có nhiều cách thức và góc độ khác nhau được sử dụng để mô tả thị trường doanh nghiệp, sự mô tả đó xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ cần giải quyết. Cách thức mô tả thường được sử dụng chỉ có thể có hiệu quả và giúp ích cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở đã miêu tả được thị trường doanh nghiệp trên tiêu thức tổng quát. Mô tả thị trường doanh nghiệp theo tiêu thức tổng quát bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Thị trường đầu vào liên quan đến khả năng và các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn cung cấp các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp. Khi mô tả thị trường đầu vào của doanh nghiệp, người ta sử dụng ba tiêu thức cơ bản là sản phẩm, đại lý và người cung cấp. Thị trường đầu ra liên quan trực tiếp đến mục tiêu marketing là giải quyết vấn đề tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bất kỳ một yếu tố nào dù rất nhỏ của thị trường này đều có ảnh hưởng ở mức đọ khác nhau tới khả năng thành công hay thất bại trong tiêu thụ. Đặc điểm và tính chất của thị trường tiêu thụ là cơ sở để doanh nghiệp hoạch định và tổ chức thực hiện các chiến lược chính sách, công cụ điều khiển thực hiện. Để mô tả thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp có thể sử dụng riêng biệt hay kết hợp ba tiêu thức sản phẩm, khách hàng và đại lý. Theo tiêu thức sản phẩm, doanh nghiệp thường xác định sản phẩm theo ngành hàng hay nhóm hàng mà họ kinh doanh và bán ra trên thị trường. Theo tiêu thức khách hàng với nhu cầu của họ, doanh nghiệp mô tả thị trường của mình theo nhóm khách hàng mà họ hướng tới để thoả mãn, bao gồm khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng. Về lý thuyết, tất cả người mua trên thị trường đều trở thành khách hàng của doanh nghiệp và hình thành lên thị trường doanh nghiệp. Nhưng trước thực tế nhu cầu của khách hàng rất đa dạng và phong phú. Họ cần đến những sản phẩm khác nhau để thoả mãn nhu cầu, trong khi doanh nghiệp chỉ có thể đưa ra một hoặc một số sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của họ. Do đó dẫn đến một thực tế là hình thành nên thị trường - những nhóm khách hàng mà doanh nghiệp có thể chinh phục. Tóm lại, dù xét dưới góc độ nào ta đều thấy rằng thị trường bao giờ cũng không thể thiếu các yếu tố: - Thứ nhất phải có khách hàng (người mua hàng) không nhất thiết phải gắn với một địa điểm nhất định. - Thứ hai: khách hàng phải có nhu cầu chưa thoả mãn. - Thứ ba: Khách hàng phải có khả năng thanh toàn cho việc mua hàng. Để hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển thị trường xuất khẩu trước hết chúng ta cần hiêu ddược thị trường xuất khẩu khác với thị trường trong nước và thị trường nói chung ở điểm gì? Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp có thể được hiểu là một nhóm khách hàng nước ngoài có nhu cầu về hàng hoá của doanh nghiệp. Thị trường xuất khẩu vừa mang những đặc điểm chung của thị trường vừa mang nhừng đặc thù riêng: + Cầu thị trường về một loại hàng hoá rất lớn, hàng hoá di chuyển vượt qua biên giới quốc gia từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. + Các nhà cung cấp cũng như khách hàng là những người có quốc tịch khác nhau. + Thủ tục thanh toán trên thị trường này tương đối phức tạp, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một bên hay cả hai bên. + Thị trường xuất khẩu chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố văn hoá phong tục tập quán của từng nước từng khu vực thị trường. 2. Các yếu tố của thị trường xuất khẩu Đối với các doanh nghiệp kinh doang quốc tế, thị trường là rất rông lớn, không chỉ bao gồn thị trường trong nước mà còn bao gồm thị trường quốc tế. Kết cấu của thị trường quốc tế hết sức phức tạp nhưng cúng mang các yếu tố của thị trường như cung cầu, giá cả, cạnh tranh. * Cầu thị trường Cầu thị trường phản ánh số lượng hàng hoá mà ngưới tiêu dùng mong muốn mua và có khả năng mua với một giá cả nhất định tại một địa điểm nhất định. Nói cách khác cầu là nhu cầu có khả năng thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, phạm trù nhu cầu có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó là cơ sở cho mọi chiến lược và sách lược kinh doanh của bất ký doanh nghiệp nào. Cầu thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giá cả của chính hàng hoá đó, thu nhập của ngưới tiêu dùng, sự biến động về dân số, sự thay đổi về môi trường kinh tế, thị hiếu của người tiêu dùng... Cầu về một loại hàng hoá trên thị trường xuất khẩu rất lớn. Phần lớn những người nhập khẩu là những người sản xuất kinh doanh thương mại - người tiêu thụ trung gian lên lượng mua rất lớn. Nhu cầu về một sản phẩm trên các thị rường xuất khẩu nhiều khi rất khác nhau do mỗi quốc gia, mõi khu vực có yếu tố văn hoá xã hội, tập quán tiêu dùng, trình độ phát triển là khác nhau. * Cung thị trường Cung thị trường thể hiện số lượng hàng hoá và dịch vụ mà người sản xuất muốn và có khả năng sản xuất để bán theo một mức giá nhất định ở một thời điểm nhất định. Cũng như cầu, cung của thị trường chịu ảnh hưởng của khá nhiều nhân tố như giá cả hàng hoá, chi phí sản xuất, các yếu tố chính trị xã hội, trình độ công nghệ... Các nhà cung cấp trên thị trường xuất khẩu thường có quốc tịch khác nhau và mỗi nhà cung cấp thường bán ra một lượng hàng hoá dịch vụ tương đối lớn. * Giá cả thị trường Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Nói cách khác giá cả chính là giá trị tiền tệ của hàng hoá khi nó được đưa ra giao dịch trên thị trường. Giá cả thị trường được hình thành thông qua cân bằng về cung cầu. Tuy nhiên một số quốc gia có lợi thế về điều kiện tự nhiên, về công nghệ sản xuất và nắm giữ một khối lượng cung lớn thì có thể tác động đến giá cả thị trường xuất khẩu thông qua điều chỉnh lượng cung của mình. Còn các nước các doanh nghiệp nhỏ, khi tham gia vào thị trường thế giới chỉ có thể phải chấp nhận mức giá đã hình thànhvà nhiều khi còn bị đối tác ép giá. * Cạnh tranh Cạnh tranh là một yếu tố không thể thiếu được trên thị trường. Cạnh tranh có thể diễn ra trong một mặt hàng một lĩnh vực... Yếu tố cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải thường xuyên nâng cao chất lượng sản phẩm, nguyên vật liệu máy móc thiết bị đầu vào phù hợp, giảm chi phí kinh doanh. Cạnh tranh làm cho sản phẩm bán ra trên thị trường quốc tế có chất lượng ngày càng cao, giá ngày càng hạ, dịch vụ chu đáo và trở lên phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. cạnh tranh góp phần thúc đẩy sản xuât phát triển loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Do vậy doanh nghiệp phải thường xuyên vươn lên chiến thằn trong cạnh tranh và thông qua đó làm cho kinh tế đất nước ngày càng phát triển. * Phân loại thị trường xuất khẩu Thị trường thế giới rất rộng lớn, một doanh nghiệp không thể cung cấp tất cả hàng hoá, dịch vụ cho toàn bộ nhu cầu của thị trường được mà có thể cung cấp cho một nhóm khách hàng nào đó. Vì vậy để xác định được nhóm khách hàng một cách tương đối rong thị trường xuất khẩu chúng ta cần phải phân loại thị trường xuất khẩu thành những loại thị trường nhỏ, cụ thể hơn, để từ đó doanh nghiệp có thể đưa ra các phương thức kinh doanh phù hợp. Có rất nhiều tiêu trí giúp ta phân loại thị trường xuất khẩu. Căn cứ vào mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với khách hàng ta chia thành thị trường xuất khẩu trực tiếp và thị trường xuất khẩu gián tiếp. Thị trường xuất khẩu trực tiếp là thị trường mà tại đó doanh nghiệp trực tiếp tiến hành hoạt động xuất khẩu vào thị trường mà không qua các trung gian xuất nhập khẩu. Còn nếu doanh nghiệp không có quyền hoặc không có điều kiện xuất khảu trực tiếp thì có thể thông qua các trung gian như hãng xuất khẩu trong nước, đại diện, hiệp hội xuất khẩu... Lúc này doanh nghiệp phải trả một khoản tiền cho trung gian xuất khẩu được gọi là phí uỷ thác. Căn cứ vào thời gian thiết lập mối quan hệ với khách hàng : doanh nghiệp có thể chia thành thị trường xuất khẩu truyền thống và thị trường xuất khẩu mới. Thị trường xuất khẩu truyền thống là thị trường mà doanh nghiệp đã từng có quan hệ cộng tác trong thời gian dài và khá ổn định. Thị trường mới là thị trường doanh nghiệp mới đặt quan hệ làm ăn chưa ổn định. Cách phân chia này chỉ mang tính tương đối theo quan niệm của doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp phân định rõ thị trường trong việc xây dựng chính sách và chiến lược kinh doanh hợp lý nhất. Căn cứ vào hình thức sản xuất hàng xuất khẩu, phân chia thành thị trường xuất khẩu gia công và thị trường xuất khẩu tự doanh. Thị trường xuất khẩu gia công là trường hợp hàng xuất đi dưới dạng hàng gia công. Doanh nghiệp xuất là bên nhận gia công. Doanh nghiệp sẽ nhận toàn bộ hoặc một phần nguyên vật liệu và các tài liệu kỹ thuật từ đối tác rồi tiến hành sản xuất theo theo yêu cầu đã ký kết. Sau đó doanh nghiệp giao thành phẩm cho bên đặt và nhận tiền thù lao gia công. Thực hiện phương thức kinh doanh này, doanh nghiệp không phải lo lắng về khâu tiêu thụ sản phẩm, độ rủi ro thấp nhưng thu nhập không cao và phí gia công thường thấp. Thị trường xuất khẩu hàng tự doanh: Mặt hàng xuất khẩu do doanh nghiệp tự sản xuất hoặc tự thu mua rồi xuất ra thị trường. Căn cứ vào mặt hàng xuất khẩu: Có thể phân chia thị trường xuất khẩu thành thị trường xuất khẩu nông sản, thị trường xuất khẩu hàng thủ công, thị trường xuất khẩu hàng may mặc, thị trường xuất khẩu dầu mỏ... Thậm chí có thể phân chia nhỏ hơn như thị trường xuất khẩu gạo, thị trường xuất khẩu rau quả, thị trường xuất khẩu gốm sứ... Thực tế việc phân chia mặt hàng chỉ có ý nghĩa trong phân tích kinh tế và những doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nhiều mặt hàng. Căn cứ mức độ hạn chế xuất khẩu của chính phủ: thị trường hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch. Hạn ngạch là qui định của nhà nước về số lượng và chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu với mục đích hạn chế xuất nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Thị trường xuất khẩu có thể áp dụng "hạn chế xuất khẩu tự nguyện"đòi hỏi quốc gia xuất khẩu chỉ được xuất sang nước mình một lượng hàng nhất định. Muốn xuất sang thị trường đó, doanh nghiệp cần phải xin hoặc mua hạn ngạch, xuất hàng theo hạn ngạch được cấp. Và khi đó thị trường này được coi là thị trường có hạn ngạch. Đối với thị trường phi hạn ngạch, doanh nghiệp có thể xuất sang khối lượng không hạn chế, tuỳ theo khả năng của mình và nhu cầu của người mua. Căn cứ vào tấm quan trọng của thị trường:Thị trường xuất khẩu được chia thành thị trường xuất khẩu chính (thị trường trọng điểm) và thị trường xuất khẩu phụ. Thị trường xuất khẩu chính là thị trường mà kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường đó chiếm tỷ trọng chủ yếu. Nếu doanh nghiệp dựa chủ yếu vào một thị trường thì dễ gặp rủi ro vì bất cứ một thay đổi nào trên thị trường này cũng ảnh hưởng mạnh tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải đa dạng hoá thị trường kinh doanh bằng cách mở những thị trường mới, tăng thị phần trên những thị trường xuất khẩu phụ. Căn cứ vào vị trí địa lý: Thị trường được phân theo khu vực, theo nước và vùng lãnh thổ như thị trường EU, thị trường Bắc Mỹ, thị trường Đông Nam á, thị trường Trung Quốc... Thông thường việc phân chia thị trường theo khu vực phụ thuộc vào đặc tính của từng thị trường. Nếu các nước có thị hiếu tương tự nhau hoặc có các tập quán quy định như nhau, có vị trí địa lý gần nhau hay cùng nằm trong tổ chức thương mại thì thường được xếp vào một nhóm vì nó liên quan đến việc đề ra chính sách, chiến lược kinh doanh cũng như vấn đề chi phí. Doanh nghiệp có thể kết hợp
Tài liệu liên quan