Ngày nay khi hội nhập về kinh tế và xu thế quốc tế hoá đang là xu hướng cơ bản của nền kinh tế thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy của xu thế hội nhập kinh tế. Điều này được thể hiện thông qua cải cách kinh tế từ năm 1986, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cùng với đó là sự tham gia của nước ta vào các tổ chức kinh tế và đặt quan hệ thương mại với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
78 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty cổ phần vận tải đa quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
TÍNH THIẾT YẾU CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay khi hội nhập về kinh tế và xu thế quốc tế hoá đang là xu hướng cơ bản của nền kinh tế thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy của xu thế hội nhập kinh tế. Điều này được thể hiện thông qua cải cách kinh tế từ năm 1986, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cùng với đó là sự tham gia của nước ta vào các tổ chức kinh tế và đặt quan hệ thương mại với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt là năm 2006, nước ta đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), điều này đã mở ra rất nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các doanh nghiệp trong nước.
Các doanh nghiệp của nước ta từ trước đến nay do vẫn được sự bảo trợ của nhà nước nên chưa có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp. Hiện nay, khi thực hiện chủ trương mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước ta thì các doanh nghiệp trong nước đã gặp rất nhiều khó khăn để duy trì sự tồn tại của mình trên thị trường. Lúc này, đã xuất hiện rất nhiều các công ty nước ngoài có tiềm lực mạnh cũng tham gia vào thị trường Việt Nam. Điều đó càng đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước phải tìm ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của mình.
MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Công ty cổ phần vận tải đa quốc gia là một công ty tư nhân hình thành dưới hình thức doanh nghiệp cổ phần, là một hình thức mới của nền kinh tế nước ta hiện nay. Công ty cũng không nằm ngoài xu thế hội nhập hiện nay, Công ty cũng đang rất nỗ lực tìm ra hướng đi vững chắc cho mình trong nền kinh tế có nhiều sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Lĩnh vực kinh doanh vận tải là một lĩnh vực có nhiều tiềm năng mà hiện nay Công ty mới chỉ là một trong số ít các Công ty kinh doanh lĩnh vực này nên cũng có những thuận lợi nhất định. Công ty đã có nhiều chú ý đến công tác quản lý nhằm đưa ra hướng đi đúng đắn và vững mạnh cho công ty. Cùng với các kiến thức lý luận được học ở trường và những kinh nghiệm thực tế tìm hiểu tại Công ty cổ phần vận tải đa quốc gia, được sự giúp đỡ của cán bộ trong công ty và đặc biệt là sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy giáo PST.TS Mai Văn Bưu, em đã nghiên cứu và viết đề tài: “Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty cổ phần vận tải đa quốc gia”.
KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Chương I : Một số nội dung lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hiệu quả kinh doanh tại Công ty cổ phần vận tải đa
quốc gia.
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả
Kinh doanh tại Công ty cổ phần vận tải đa quốc gia.
Chương I: Một số nội dung lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
I - Kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1. Kinh doanh của doanh nghiệp
1.1 Khái niệm về kinh doanh
Thuật ngữ kinh doanh có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau, nhưng nói chung có thể định nghĩa như sau: Kinh doanh là các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi của các chủ thể kinh doanh.
Từ định nghĩa trên có thể thấy hoạt động kinh doanh có các đặc điểm chủ yếu như sau:
Hoạt động kinh doanh phải được thực hiện bởi một chủ thể nhất định gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ thể kinh doanh có thể là cá nhân, hộ gia đình hay một tổ chức.
Hoạt động kinh doanh phải diễn ra trên thị trường.Thị trường và kinh doanh luôn đi đôi với nhau. Không có thị trường thì sẽ không có hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh còn gắn với sự vận động của nguồn vốn nhằm mang lại các lợi ích kinh tế cho chủ thể kinh doanh. Như vậy chủ thể kinh doanh không chỉ là người có vốn mà còn phải biết cách làm cho đồng vốn đó vận động không ngừng và ngày càng tăng lên.
Ngoài ra còn cách hiểu khác về kinh doanh như sau: “ Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Theo định nghĩa này, một hành vi được coi là kinh doanh nếu nó đáp ứng được các yêu cầu sau:
Hành vi đó phải mang tính chất nghề nghiệp nghĩa là chủ thể kinh doanh khi thực hiện một hành vi kinh doanh là họ đã thực hiện nguyên tắc phân công lao động xã hội. Họ sống bằng hành vi đó, được pháp luật thừa nhận và bảo hộ.
Hoạt động kinh doanh phải diễn ra trên thị trường, theo quan điểm marketing thì “ thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó”.
Mục đích của hoạt động kinh doanh là kiếm lời, dấu hiệu này cho thấy hành vi kinh doanh chứa đựng khả năng và yêu cầu cần được thanh toán mà người kinh doanh luôn theo đuổi mục đích tìm kiếm lợi nhuận trong hoạt động của mình. Đây là dấu hiệu quan trọng để phân biệt hành vi kinh doanh với các hoạt động khác như hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động từ thiện xã hội…
1.2 Vai trò của hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp
Kinh doanh là hoạt động cốt yếu của doanh nghiệp. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường thì để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Để có kết quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định phương hướng đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện sẵn có về các nguồn nhân tài và vật lực. Muốn vậy các doanh nghiệp cần nắm được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp muốn tồn tại trên thị trường thì phải dựa vào hoạt động kinh doanh của mình và hơn thế nữa hoạt động kinh doanh đó phải có lãi. Hoạt động kinh doanh có vai trò to lớn với không chỉ doanh nghiệp mà cả người lao động và nhà nước. Khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và có thể tồn tại trên thị trường thì trước tiên là bản thân doanh nghiệp sẽ có thể tồn tại trên thị trường. Ngoài ra còn mang lại nguồn lợi cho các chủ sở hữu doanh nghiệp, người lao động có việc làm và có thu nhập, nhà nước cũng sẽ thu được các khoản thuế từ hoạt động của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp góp phần tạo đà cho nền kinh tế phát triển hơn.
Do vậy hoạt động kinh doanh là nội dung cốt yếu đối với doanh nghiệp và ngoài ra cũng tạo ra hiệu ứng tích cực với nền kinh tế.
2. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
2.1 Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
2.1.1 Khái niệm
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động mà chủ thể đưa ra và chi phí mà chủ thể phải bỏ ra để có kết quả đó trong điều kiện nhất định.
Từ đó ta có công thức hiệu quả chung là:
Công thức hiệu quả tuyệt đối: E = K – C
Công thức hiệu quả tương đối: E = K / C
Trong đó: K là kết quả nhận được và được đo bằng các đơn vị khác nhau
C là chi phí bỏ ra và được đo bằng các đơn vị khác nhau
E là hiệu quả
Kết quả (K) mà chủ thể nhận được trong quá trình hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. Vì vậy hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương án hành động có lợi nhất.
Hiệu quả tài chính, còn gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được với chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế đó. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
2.1.2 Các nguyên tắc xác định hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh được xác định dựa theo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc 1: Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu với tiêu chuẩn hiệu quả.
Theo nguyên tắc này thì tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở các mục tiêu. Với những mục tiêu đặt ra khác nhau thì hiệu quả sẽ khác nhau, khi mục tiêu thay đổi thì tiêu chuẩn hiệu quả cũng thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả được xem như là thước đo để thực hiện các mục tiêu.
+ Nguyên tắc 2: Nguyên tắc về sự thống nhất của lợi ích.
Một phương án được xem như là có hiệu quả khi nó kết hợp được trong đó các loại lợi ích. Bao gồm trong đó là lợi ích của chủ doanh nghiệp, lợi ích của xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
+ Nguyên tắc 3: Nguyên tắc về tính chính xác và tính khoa học.
Để đánh giá hiệu quả của các phương án thì cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu có thể lượng hoá đuợc và không lượng hoá được. Tức là phải kết hợp được phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Khi mà phân tích định lượng chưa đủ bảo đảm tính chính xác và chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm thì ta không thể thay thế phân tích định lượng bằng phân tích định tính được.
+ Nguyên tắc 4: Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế.
Theo như nguyên tắc này thì phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin đơn giản, thực tế và dễ hiểu. Không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi ta chưa có được đầy đủ các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo được độ chính xác.
2.2 Vai trò của hiệu quả kinh doanh
2.2.1 Hiệu qủa hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu và công cụ của quản trị doanh nghiệp
Để bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào được tiến hành thì con người cần phải kết hợp yếu tố con người và yếu tố vật chất nhằm thực hiện công việc phù hợp với ý đồ trong chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở những nguồn lực sẵn có. Để thực hiện được điều này thì bộ phận quản trị doanh nghiệp sử dụng rất nhiều công cụ trong đó có công cụ hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá những điều mà doanh nghiệp đạt được sau khi bỏ ra một khoản chi phí để thực hiện các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, hiệu quả kinh doanh cao luôn là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp hiện nay. Việc xem xét và tính toán hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ cho biết việc sản xuất đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đạt được. Điều đó giúp cho các nhà quản trị tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả.
Về bản chất, hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào. Do đó, xét trên phương diện lý luận và thực tiễn thì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá, so sánh và phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu nhất để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Với vai trò là phương tiện đánh giá và phân tích hiệu quả kinh tế, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ được sử dụng ở mức độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào ở toàn bộ doanh nghiệp mà còn đánh giá được trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn doanh nghiệp cũng như đánh giá được từng bộ phận của doanh nghiệp.
2.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Các nguồn tài nguyên trên trái đất đều là hữu hạn và ngày càng cạn kiệt, khan hiếm so hoạt động khai thác và sử dụng hầu như không có kế hoạch của con người. Trong khi đó, mật độ dân số của từng vùng, từng quốc gia ngày càng tăng và nhu cầu sử dụng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cũng ngày càng nhiều, càng đa dạng và đòi hỏi chất lượng càng cao. Sự khan hiếm đó đòi hỏi con người phải có sự lựa chọn kinh tế nhất. Trước đây khi trình độ phát triển còn thấp, con người đã lựa chọn sự phát triển kinh tế theo chiều rộng, tức là tăng trưởng kết quả sản xuất trên cơ sở gia tăng các yếu tố sản xuất. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, khi đời sống con người được nâng cao về chất lượng, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng có nhiều phương pháp khác nhau để tạo ra sản phẩm dịch vụ, cho phép cùng những nguồn lực đầu vào nhất định, người ta có thể tạo ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Đó là sự phát triển theo chiều dọc nhường chỗ cho sự phát triển theo chiều sâu, sự tăng trưởng kết quả kinh tế của sản xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới, hoàn thiện công tác quản trị và cơ cấu kinh tế. Nói một cách khái quát đó là nhờ vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường việc giải quyết ba vấn đề kinh tế: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào được quyết định theo quan hệ cung cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác. Doanh nghiệp phải tự mình đưa ra chiến lược kinh doanh và chịu trách nhiệm với kết quả kinh doanh của mình, lúc này mục tiêu lợi nhuận trở thành mục tiêu quan trọng mang tính chất quyết định. Trong điều kiện các nguồn lực khan hiếm thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là yếu tố tất yếu đối với mọi doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp còn luôn phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, nên để tồn tại và phát triển được, phương châm của các doanh nghiệp luôn phải là không ngừng nâng cao chất lượng và năng suất lao động, dẫn đến việc tăng năng suất là tất yếu.
2.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
2.3.1 Thu nhập trên tài sản
Chỉ tiêu thu nhập trên tài sản được tính như sau:
Thu nhập trên tài sản Lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính (EBIT)
(ROA) Tổng giá trị tài sản bình quân
Trong đó: Lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính(EBIT) lấy số liệu từ báo cáo kết quả kinh doanh được xác định bằng lợi nhuận kế toán trước thuế cộng với chi phí tài chính.
Tổng giá trị tài sản bình quân Tổng TS đầu kỳ + Tổng TS cuối kỳ
2
Tổng giá trị tài sản được lấy số liệu từ bảng cân đối kế toán.
Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đồng tài sản tham gia vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp thì sẽ tạo ra bao nhiêu lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính. Chỉ tiêu thu nhập trên tài sản cho phép đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp từ số liệu của báo cáo tài chính.
Thu nhập trên tài sản là chỉ tiêu quan trọng cho biết vấn đề nằm ở đâu thông qua nghiên cứu hai nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập trên tài sản là lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính (EBIT) và tổng giá trị tài sản bình quân. Hai nhân tố này có quan hệ thương số nên có thể sử dụng phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến thu nhập trên tài sản, ta cũng có thể sử dụng kỹ thuật phân tích độ nhạy để kiểm tra sự thay đổi của ROA khi một trong hai hoặc cả hai cùng biến động.
Có thể triển khai công thức thu nhập trên tài sản như sau:
Thu nhập trên EBIT EBIT Doanh thu thuần
TS Tổng TS bình quân Doanh thu thuần Tổng TS bình quân
Mà Lợi nhuận trước thuế và chi phí tài chính (EBIT)
Doanh thu thuần
Thể hiện mức lợi nhuận trên doanh số bán ra khi tiến hành kinh doanh, thường được gọi là tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tính bằng %.
Doanh thu thuần
Tổng giá trị TS bình quân
thể hiện mức doanh thu được tạo ra trên tổng tài sản của doanh nghiệp. Nó còn cho biết vòng quay của tài sản mà doanh nghiệp sử dụng bình quân.
Từ việc triển khai chỉ tiêu thu nhập trên tài sản cho thấy thu nhập trên tài sản phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận tính trên doanh thu và vòng quay của tài sản. Để tăng tỷ suất lợi nhuận trên tài sản thì về mặt lý thuyết có thể tác động làm tăng một trong hai hoặc cả hai là tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và vòng quay tài sản. Nếu như tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu nhỏ thì có thể gia tăng vòng quay tài sản và ngược lại. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh thì việc gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu không phải là điều dễ thực hiện.
Trường hợp cả tỷ suất lợi nhuận lẫn vòng quay tài sản đều thấp thì điều đó có nghĩa doanh nghiệp đang có vấn đề cần xử lý. Từ đó cần có những biện pháp phù hợp để giúp doanh nghiệp có thể tăng trưởng ở các thời kỳ sau đó.
2.3.2 Thu nhập trên vốn chủ (ROE)
Chỉ tiêu thu nhập trên vốn chủ được tính theo công thức sau:
Thu nhập trên vốn chủ Lợi nhuận sau thuế (LNst)
(ROE) Vốn chủ sở hữu bình quân (VC)
Trong đó: Lợi nhuận sau thuế lấy số liệu từ báo cáo kết quả kinh doanh chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế.
Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu đầu kỳ + Vốn chủ sở hữu cuối kỳ
bình quân 2
Vốn chủ sở hữu đầu kỳ và cuối kỳ được lấy số liệu từ bảng cân đối kế toán.
Chỉ tiêu thu nhập trên vốn chủ phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, nó cho biết bình quân một đồng vốn chủ sở hữu bỏ vào kinh doanh bình quân trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Phân tích chỉ tiêu vốn chủ có thể triển khai công thức trên trong mối quan hệ với tỷ suất lợi nhuận sau thuế, vòng quay tài sản và cấu trúc tài chính. Cách triển khai được công thức như sau:
ROE LNst LNst DT TS
VC DT TS VC
(1) (2) (3)
Trong công thức trên:
: Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần
: Hệ số quay vòng tài sản
: Hệ số tài sản
Từ phương trình trên cho thấy công thức (1) thể hiện đòn bẩy tài chính phản ánh chính sách tài chính, các hệ số còn lại phản ánh tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn chủ phụ thuộc vào ba nhân tố trên, nếu một hoặc ba hệ số trên thay đổi thì hiệu quả sử dụng vốn cũng sẽ thay đổi theo. Điều đó cho thấy rằng muốn có hiệu quả sử dụng vốn cao thì tốt nhất là tác động vào (1) và (2) tức là cải thiện tình hình hoạt động, nếu không thì phải chuẩn bị phương án thay đổi chính sách tài chính.
2.3.3 Hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn được tính toán chủ yếu qua hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh, công thức tính như sau:
HSDLVKD = ∏ / V
Trong đó: HSDLVKD : hệ số doanh lợi vốn kinh doanh
∏ : lợi nhuận
V : vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết khi bỏ ra một đồng vốn kinh doanh thì sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này so với các doanh nghiệp khác hoặc so với các kỳ khác càng cao càng chứng tỏ khả năng sinh lợi của doanh nghiệp ngày càng cao, hiệu quả kinh doanh càng lớn và ngược lại.
- Ngoài ra còn có công thức tính hệ số doanh lợi của doanh thu thuần như sau:
HSDLDTT = ∏ / DTT
Trong đó: HSDLDTT : hệ số doanh lợi doanh thu thuần
∏ : lợi nhuận của doanh nghiệp
DTT : doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu thuần sẽ mang lại mấy đồng lợi nhuận. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ khả năng sinh lợi của vốn càng cao, hiệu quả kinh doanh càng lớn và ngược lại.
2.3.4 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định hay tài sản cố định
Giá trị bình quân của tài sản cố định trong kỳ là tổng giá trị còn lại của tài sản cố định và được tính theo nguyên giá của tài sản cố định sau khi trừ đi phần hao mòn luỹ tiến đến kỳ tính toán. Để phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định thì sử dụng hai công thức tính toán sau:
- Tính sức sản xuất của tài sản cố định:
SSXTSCĐ = DT / nguyên giá TSCĐ
Trong đó : SSXTSCĐ : sức sản xuất tài sản cố định
DT : doanh thu
Chỉ tiêu này cho ta biết cứ một đồng giá trị tài sản cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Sức sản xuất của tài sản cố định càng lớn thì càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định càng tăng và ngược lại.
- Tính sức sinh lợi của tài sản cố định:
SSLTSCĐ = LNST / nguyên giá bình quân TSCĐ
Trong đó: SSLTSCĐ : sức sinh lợi tài sản cố định
LNST : lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này cho biết đơn vị nguyên giá bình quân của tài sản cố định đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định càng cao và ngược lại. Khi nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể thấy các nguyên nhân của việc sử dụng vốn cố định không có hiệu quả thường là đầu tư tài sản cố định quá mức cần thiết, tài sản cố định không sử dụng chiếm tỷ trọng lớn và sử dụng tài sản cố định với công suất thấp hơn mức cho phép.
2.3.5 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Chỉ tiêu này được phản ánh qua hai chỉ tiêu:
- Sức sản xuất của tài sản tài sản lưu động:
SSXTSLĐ = tổng giá trị sản xuất / tài sản lưu động bình quân
Trong đó: SSXTSLĐ : sức sản xuất tài sản lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị tài sản lưu độn