Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế của một đất nước. Ngân hàng chính là nơi tích tụ tập trung vốn, khơi dậy và động viên các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Mỗi nền kinh tế vận hành và phát triển đều phải dựa trên một hệ thống nguồn lực trong đó vốn là nguồn lực không thể thay thế. Vốn bao gồm : tiền tệ, vật tư, tri thức, khoa học. Trong cơ chế thị trường với các quan hệ được tiền tệ hoá thì tiền tệ trở thành nguồn vốn quan trọng nhất. Nền kinh tế của một nước chỉ phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính tiền tệ đúng đắn và hệ thống Ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả cao, có khả năng thu hút tập trung các nguồn vốn và phân bổ các nguồn vốn đó cho nền kinh tế. Vì vậy việc tìm kiếm những giải pháp huy động vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước có ý nghĩa rất quan trọng.
Ở Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới đưa nền kinh tế Việt Nam hoà nhập với nền kinh tế thế giới, trước những đòi hỏi cấp bách của việc mở rộng các quan hệ kinh tế để phát triển kinh tế đất nước, trong nhiều năm qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có những bước chuyển biến rõ rệt và không ngừng đổi mới hoàn thiện căn bản tất cả các nghiệp vụ trong đó có nghiệp vụ huy động vốn. Trong chương trình hoạt động của ngành Ngân hàng phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, ban lãnh đạo Ngân hàng đã đề ra bốn định hướng lớn trong giai đoạn 2001-2005. Một trong những định hướng đó là việc huy động vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước.Tuy nhiên để huy động được khối lượng vốn lớn và nâng cao hiệu quả tín dụng trong nền kinh tế lại là một thách thức lớn đòi hỏi các NHN¬o&PTNT phải có các hình thức huy động vốn phong phú và linh hoạt. Làm thế nào để huy động được vốn đáp ứng cho sự nghiệp CNH - HĐH, phát triển kinh tế địa phương là một vấn đề đang được các NHNoPTNT quan tâm. Tình hình kinh tế chính trị trên thế giới đang có sự bất ổn đã ảnh hưởng không ít đến tình hình kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, thị trường xuất khẩu gặp khó khăn cho hoạt động Ngân hàng, nhất là có sự cạnh tranh mãnh liệt giữa các Ngân hàng trong việc tăng lãi suất huy động vốn, hình thức huy động vốn, giảm lãi suất cho vay và cung ứng các dịch vụ Ngân hàng, chiếm lĩnh thị trường.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vốn đối với nền kinh tế nói chung và đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói riêng. Em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam” làm tên cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Chương 1: Một số vấn đề về vốn tín dụng ngân hàng
Chương 2: Thực trạng tạo vốn và hiệu quả tín dụng của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Do thời gian và kiến thức có hạn nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
80 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế của một đất nước. Ngân hàng chính là nơi tích tụ tập trung vốn, khơi dậy và động viên các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Mỗi nền kinh tế vận hành và phát triển đều phải dựa trên một hệ thống nguồn lực trong đó vốn là nguồn lực không thể thay thế. Vốn bao gồm : tiền tệ, vật tư, tri thức, khoa học... Trong cơ chế thị trường với các quan hệ được tiền tệ hoá thì tiền tệ trở thành nguồn vốn quan trọng nhất. Nền kinh tế của một nước chỉ phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính tiền tệ đúng đắn và hệ thống Ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả cao, có khả năng thu hút tập trung các nguồn vốn và phân bổ các nguồn vốn đó cho nền kinh tế. Vì vậy việc tìm kiếm những giải pháp huy động vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước có ý nghĩa rất quan trọng.
Ở Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới đưa nền kinh tế Việt Nam hoà nhập với nền kinh tế thế giới, trước những đòi hỏi cấp bách của việc mở rộng các quan hệ kinh tế để phát triển kinh tế đất nước, trong nhiều năm qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có những bước chuyển biến rõ rệt và không ngừng đổi mới hoàn thiện căn bản tất cả các nghiệp vụ trong đó có nghiệp vụ huy động vốn. Trong chương trình hoạt động của ngành Ngân hàng phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, ban lãnh đạo Ngân hàng đã đề ra bốn định hướng lớn trong giai đoạn 2001-2005. Một trong những định hướng đó là việc huy động vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước.Tuy nhiên để huy động được khối lượng vốn lớn và nâng cao hiệu quả tín dụng trong nền kinh tế lại là một thách thức lớn đòi hỏi các NHNo&PTNT phải có các hình thức huy động vốn phong phú và linh hoạt. Làm thế nào để huy động được vốn đáp ứng cho sự nghiệp CNH - HĐH, phát triển kinh tế địa phương là một vấn đề đang được các NHNoPTNT quan tâm. Tình hình kinh tế chính trị trên thế giới đang có sự bất ổn đã ảnh hưởng không ít đến tình hình kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, thị trường xuất khẩu gặp khó khăn cho hoạt động Ngân hàng, nhất là có sự cạnh tranh mãnh liệt giữa các Ngân hàng trong việc tăng lãi suất huy động vốn, hình thức huy động vốn, giảm lãi suất cho vay và cung ứng các dịch vụ Ngân hàng, chiếm lĩnh thị trường.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vốn đối với nền kinh tế nói chung và đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói riêng. Em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam” làm tên cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Chương 1: Một số vấn đề về vốn tín dụng ngân hàng
Chương 2: Thực trạng tạo vốn và hiệu quả tín dụng của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng của Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Do thời gian và kiến thức có hạn nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Vốn tín dụng
1.1. Khái niệm
Tín dụng ra đời cùng sự xuất hiện của tiền tệ. Khi một chủ thể kinh tế cần một lượng hàng hoá cho nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất trong khi chưa có tiền hoặc số tiền hiện có chưa đầy đủ họ có thể sử dụng hình thức vay mượn để đáp ứng nhu cầu. Có hai cách vay mượn: vay chính loại hàng hoá đang có nhu cầu hoặc vay tiền để mua loại hàng hoá đó. Quan hệ vay mượn như vậy gọi là quan hệ tín dụng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai. Có thể định nghĩa quan hệ tín dụng một cách đầy đủ như sau: Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá thị ban đầu.
1.2. Tín dụng ngân hàng
Là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết kiệm, thông qua vai trò trung gian của ngân hàng, thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn. Khác với hình thức tín dụng trực tiếp, nguồn vốn của tín dụng ngân hàng là nguồn vốn huy động của xã hội với khối lượng và thời hạn khác nhau, do đó nó có thể thoả mãn các nhu cầu vốn đa dạng về khối lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng. Vì nguồn vốn huy động có tính chất nhàn rỗi tạm thời nên tín dụng ngân hàng chủ yếu đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn. Sự tin tưởng đóng một vai trò quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của quan hệ tín dụng ngân hàng. Sự đổ bể của một khoản tín dụng không chỉ làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của một ngân hàng mà nó có thể gây phản ứng dây chuyền tới sự ổn định của toàn hệ thống vì chúng có mối quan hệ với nhau thông qua hệ thống thanh toán. Nguy hiểm hơn điều này còn làm thiệt hại đến quyền lợi của người gửi tiền, gây ảnh hưởng không tốt đến sự ổn định xã hội. Vì thế yêu cầu đảm bảo an toàn cho mỗi khoản tín dụng ngân hàng là điều bắt buộc. Yêu cầu này được thực hiện ngay từ trước khi cho vay thông qua đánh giá thẩm định tính khả thi của dự án xin vay, cho đến yêu cầu thế chấp, cầm cố và bảo lãnh khi vay và theo dõi, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay.
Tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ – bởi chúng không đủ điều kiện để tham gia vào các thị trường vốn trực tiếp. Cao hơn thế, khả năng cung ứng vốn của tín dụng ngân hàng còn góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng còn được sử dụng như công cụ để phát triển các ngành kinh tế chiến lược theo yêu cầu của Chính phủ.
1.3. Phân loại
Phân loại tín dụng ngân hàng là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Phân loại tín dụng một cách khoa học sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, mang lại hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Dưới đây là một số tiêu thức phân loại chính và hiệu quả tác động của mỗi tiêu thức:
1.3.1. Phân theo thành phần kinh tế
Bước vào quá trình đổi mới, nền kinh tế Việt Nam phát triển theo cơ chế thị trường với sự đa dạng của các thành phần kinh tế. Bằng cách phân loại khách hàng, tín dụng theo thành phần kinh tế sẽ xác định được một cách chính xác đối tượng chính tham gia vào hoạt động tín dụng ngân hàng và ảnh hưởng của tín dụng ngân hàng tới hoạt động của đối tượng đó cũng như hiệu quả tín dụng của Ngân hàng. Từ đó ngân hàng sẽ có hướng đầu tư hợp lý vào các đối tượng khách hàng, đảm bảo sự phân bổ vốn tín dụng cân đối, đa dạng hoá các đối tượng khách hàng.
1.3.2. Phân theo mục đích cho vay
Theo tiêu thức phân loại này tín dụng ngân hàng được chia thành các loại sau:
+ Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu, … phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Cho vay công nghiệp thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
+ Cho vay cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các yêu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, trang trải các chi phí thông thường của đời sống, …
Cách phân loại này, hoạt động tín dụng của Ngân hàng bám sát những mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương cũng như của cả nước, có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, góp phần xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.3.3. Phân loại theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia ra làm ba loại:
+ Cho vay ngắn hạn: Được xác định tính đến 12 tháng và phù hợp với những kế hoạch, mô hình sản xuất nhỏ có chu kỳ ngắn.
+ Cho vay trung hạn: Được quy định là trên 12 tháng đến 5 năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hay thay đổi công nghệ, thiết bị sản xuất kinh doanh, ... trong nông nghiệp, đối tượng đầu tư chủ yếu là máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều, ...
+ Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời gian trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể đến 20 - 30 năm, ...
Tín dụng dài hạn về cơ bản là đáp ứng các nghiệp vụ dài hạn. Trong nông nghiệp, tín dụng ngân hàng dài hạn thường đầu tư cho những dự án trồng rừng, trồng cây lâu năm, ...
1.3.4. Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại chính:
+ Cho vay không đảm bảo (cho vay tín chấp): Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hay được bảo lãnh của người thứ ba. Đối với những đối tượng khách hàng (hộ sản xuất kinh doanh) hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo quy định rõ ràng của Nhà nước về mục đích sản xuất thì cũng không cần bảo đảm bằng tài sản khi vay vốn tín dụng ngân hàng: hộ sản xuất nông nghiệp được vay đến 10 triệu đồng, hộ phát triển kinh tế trang trại hay sản xuất hàng hoá được vay đến 30 triệu đồng không cần tài sản đảm bảo, và đến 50 triệu đồng đối với hộ vay vốn sản xuất giống thuỷ hải sản, ...
+ Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp, cầm cố, hay phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Bảo đảm tiền vay là cần thiết và là căn cứ để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất trong trường hợp món vay nhiều rủi ro, thiếu chắc chắn.
Ngoài các tiêu thức phân loại trên, tín dụng còn được phân loại theo các tiêu thức khác như theo phương pháp hoàn trả, theo xuất xứ tín dụng, ...
Với từng phương thức phân loại khác nhau, các nhà phân tích sẽ nắm bắt được kết cấu của từng loại tín dụng, của từng loại khách hàng một cách chính xác nhất, giúp họ đánh giá, xem xét liệu mỗi kết cấu tín dụng đã phù hợp với ngân hàng, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế chung chưa, để từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất cho mỗi loại tín dụng được mở.
2. Đặc điểm của vốn tín dụng
2.1. Đặc trưng của quan hệ tín dụng
Một quan hệ tín dụng phải thoả mãn những đặc trưng sau:
- Thứ nhất, là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời. Đối tượng của sự chuyển nhượng có thể là tiền tệ hoặc là hàng hoá dưới hình thức kéo dài thời gian thanh toán trong quan hệ mua bán hàng hoá. Tính chất tạm thời của sự chuyển nhượng đề cập đến thời gian sử dụng lượng giá đó. Nó là kết quả của sự thoả thuận giữa các đối tác tham gia quá trình chuyển nhượng để đảm bảo sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá đó. Sự thiếu phù hợp của thời gian chuyển nhượng có thể ảnh hưởng đến quyền lợi tài chính và hoạt động kinh doanh của cả hai bên và dẫn đến nguy cơ phá huỷ quan hệ tín dụng. Thực chất trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với lượng giá trị đó.
- Thứ hai, tính hoàn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn trả đúgn hạn cả về thời gian và về giá trị bao gồm hai bộ phận: gốc và lãi. Phần lãi đảm bảo cho lượng giá trị hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự chênh lệch này là trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời. Nói cách khác, nó là giá trả cho sự hy sinh quyền sử dụng vốn hiện tại của người sở hữu và thế nó phải đủ hấp dẫn để người sở hữu có thể sẵn sàng hy sinh quyền sử dụng đó.
- Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để lập quan hệ tín dụng. Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người đi vay cũng tin tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ giữa người đi vay và người cho vay về điểm này sẽ là điều kiện hình thành quan hệ tín dụng. Cơ sở của sự tin tưởng náy có thể do uy tín của người đi vay, do giá trị tài sản thế chấp và do sự bảo lãnh của người thứ ba.
2.2. Đặc điểm đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn
Để đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn mang lại hiệu quả kinh tế cao, cần phải hiểu rõ những đặc điểm của đầu tư vốn. Đặc điểm của vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, trước hết biểu hiện ở đặc điểm hoạt động của vố. Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, vốn, sự huy động vốn và sự hoạt động của vốn cũng có những đặc điểm riêng:
+ Nông nghiệp là ngành có nhiều đặc điểm mang tính đặc thù, trong đó tíng nặng nhọc, phức tạp của lao động, tính sinh lời thấp và tính rủi ro cao của sản xuất là những đặc điểm có tính đặc trưng nhất. Với những đặc điểm này, nông nghiệp là ngành cần lượng vốn đầu tư lớn, nhưng lượng vốn trong nội bộ ngành ít, sức thu hút từ các ngành khách của nền kinh tế quốc dân rất kém. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư qua ngân sách, nguồn vốn tín dụng ưu đãi có ý nghĩa hết sức quan trọng.
+ Nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học. Vì vậy ngoài những tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật còn có những tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học (cây trồng, vật nuôi …). Những tư liệu lao động này, một mặt thay đổi giá trị sử dụng theo quy luật sinh học, mặt khác chúng không có sự khôi phục từ bộ phận như máy móc. Hơn nữa chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi khá phức tạp. Tuỳ thuộc từng loại chu kỳ sản xuất dài ngắn khác nhau (loại ngắn cũng phải 3 tháng, có loại thời gian kiến thiết cơ bản dài tới 7 năm, chu kỳ kinh tế tới 40 năm như cây cao su). Những yêu cầu về vốn theo đặc điểm trên rất nghiêm ngặt. Vì vậy, chính sách đầu tư và cung cấp vốn phải tuân thủ và phù hợp với từng loại cây trồng vật nuôi theo những đặc điểm tính sinh học đó.
- Hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông thôn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Bởi vì sự tác động của vốn vào quá trình sản xuất và hiệu quả, cơ cấu kinh tế của nó không phải là trực tiếp mà là gián tiếp thông qua đất, cây trồng, vật nuôi. Để đầu tư vốn có hiệu quả, cơ cấu và lượng vốn phải phù hợp với yêu cầu của từng loại đất đai, từng đối tượng sinh học.
Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, môi trường sinh thái ngày càng xấu đi, điều kiện thiên niên ngày càng khắc nghiệt hơn làm cho tính rủi ro của sản xuất ngày càng cao, tổn thất ngày càng lớn và khó lường trước được. Trong bối cảnh đó vốn đầu tư cho nông nghiệp cần một lượng rất lớn, nhiều khi đầu tư khó thu hồi (đầu tư cho phòng hộ). Khả năng rủi ro của vốn rất cao.
+ Ngoài ra, tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển vốn chậm chạp, sự cần thiết phải dự trữ đáng kể trong thời gian tương đối dài vốn lưu động (giống, thức ăn gia súc, phân bón …) làm cho vốn ứ đọng. Mặt khác, đã tạo ra sự cần thiết tập trung hoá cao hơn các phương tiện kỹ thuật cho một lao động nông nghiệp (đặc biệt ở các nước kinh tế phát triển). Vì vậy, yêu cầu vốn cho nông nghiệp, nông thôn thường phải bổ sung một lượng lớn.
Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển, các hộ nông dân chủ yếu sống bằng nông nghiệp như Việt Nam. Trong tình trạng thu nhập của từng hộ và từng người còn thấp, khả năng tích luỹ trong nội bộ nông dân nhỏ, lực nội sinh không đủ giúp họ thoát ra khỏi sự nghèo đói vì thế nông dân (kể cả những hộ được coi là giàu) đang cần một lượng vốn lớn để phát triển sản xuất.
Ở Việt Nam thời gian qua ngân sách Nhà nước đã dành một số vốn đáng kể để đầu tư cơ bản cho nông nghiệp (thuỷ lợi, khai hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới, xây dựng các cơ sở quốc doanh, xây dựng các trạm kỹ thuật, các cơ sở chăn nuôi thú y …). Nếu tính theo giá 1990, vốn đầu tư cho nông nghiệp bình quân mỗi năm ở giai đoạn 1976 -1985 là 732 tỷ đồng, giai đoạn 1976 – 1980 là 704 tỷ đồng, giai đoạn 1981 – 1985 là 732 tỷ đồng, giai đoạn 1986 – 1990 là 673 tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu, với sự đóng góp của nông nghiệp, nông thôn cho nền kinh tế quốc dân thì mức đầu tư như trên là quá thấp, trên thực tế những năm đó, hàng năm nông nghiệp, nông thôn sáng tạo ra khoảng 50% thu nhập quốc dân, nhưng tỷ trọng vốn ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, kể cả thuỷ lợi năm cao nhất mới chiếm 21,2% (thường ở mức 18%). Trong khi đó, cơ sở vật chất của nông nghiệp còn ở trình độ rất thấp, nhất là ở các vùng trung du và miền núi (ở các vùng này, diện tích đất nông nghiệp được tưới tiêu nước chỉ đạt 26,3%, trang bị kỹ thuật đạt 27% yêu cầu).
Đầu tư vốn tín dụng cho nông nghiệp, nông dân cũng mới đáp ứng 50% - 60% nhu cầu. Hiện nay, đại bộ phận nông dân thiếu vốn sản xuất và có nhu cầu vay vốn, nhưng nguồn vốn cấp cho Ngân hàng nông nghiệp cho vay chủ yếu thoả mãn với các điều kiện của các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước. Nhiều nông dân (kẻ cả các trang trại) chưa dám vay hoặc chưa được nguồn vốn này. Hiện có 2 ý kiến trái ngược nhau: phía nông dân cho rằng thủ tục vay còn phiền hà, nông dân khó vay vốn ngân hàng, phía ngân hàng cho rằng nông dân không tiếp cận và không có nhu cầu vay vốn. Nguồn vốn vay ưu đãi chủ yếu phục vụ cho các hộ nghèo, mức thu hút thấp (5% - 6% tổng vốn tín dụng cho nông nghiệp) và chủ yếu cho các hoạt động phi sản xuất, thực thi các chính sách ưu đãi như cho vay tôn cao nền nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long, xây dựng giao thông nông nghiệp, nông thôn … Đây là những vấn đề rất bức xúc đòi hỏi chính sách đầu tư vốn phải xem xét một cách thấu đáo và giải quyết một cách thoả đáng.
3. Vai trò của vốn tín dụng đối với sản xuất nông nghiệp
3.1.Vài trò của tín dụng
a. Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất
Thứ nhất: Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhờ đó mà các chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai: Một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thoả mãn nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho các chủ thể kinh doanh.
Thức ba: Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi nó không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất của xã hội.
Thứ tư: Các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện tín dụng để hạn chế rủi ro đạo đức và rủi ro lực chọn đối nghịch buộc những người đi vay phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo mối qua hệ lâu dài với các tổ chức cung ứng tín dụng.
b. Tín dụng là kênh chuyển tải tác động của Nhà nước đến mục tiêu vĩ mô
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Việc đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hoà phụ thuộc một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng như đối tượng tín dụng. Vấn đề này, điều kiện vay, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh và chủ trương mở rộng tín dụng được quy định trong
chính sách tín dụng từng thời kỳ. Như vậy thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô cũng như kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ tác động ngược lại tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽtạo cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cân tiết.
c. Tín dụng là công cụ thực hiện chính sách xã hội
Các chính sách xã hội, về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ không hoàn lại t