Đối với bất kỳ quốc gia nào, hệ thống kết cấu hạ tầng có vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước, hệ thống kết cấu hạ tầng tạo cơ sở tiền đề cho phát triển tất cả các ngành kinh tế. Trong hệ thống kết cấu hạ tầng thì năng lượng, đặc biệt là điện là nguồn năng lượng không thể thiếu đối với các ngành sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sử dụng cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng, cho đời sống con người.
77 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành Điện lực giai đoạn 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
Đối với bất kỳ quốc gia nào, hệ thống kết cấu hạ tầng có vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước, hệ thống kết cấu hạ tầng tạo cơ sở tiền đề cho phát triển tất cả các ngành kinh tế. Trong hệ thống kết cấu hạ tầng thì năng lượng, đặc biệt là điện là nguồn năng lượng không thể thiếu đối với các ngành sản xuất như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sử dụng cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng, cho đời sống con người.
ở Việt Nam, ngành điện vẫn là một trong những ngành Nhà nước độc quyền, chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước, sản phẩm là loại hàng hoá đặc biệt, đòi hỏi quá trình sản xuất phải gắn liền với quá trình tiêu dùng. Với những đặc điểm này thì để nền kinh tế phát triển điện phải đi trước một bước.
Tầm quan trọng của ngành điện đối với nền kinh tế là không thể phủ nhận, không phải ngẫu nhiên mà Lênin cho rằng "chủ nghĩa cộng sản chính là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá" (Lênin toàn tập). Và theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với các đồng chí lãnh đạo và nhân dân rằng "dù trong hoàn cảnh trường hợp nào cũng phải chú ý đến điện, nước. Tiếp quản điện nước tốt thì quyết định thành công mọi công việc..." (theo Tạp chí Điện lực số 3 năm 1997).
Việt Nam là một trong 20 nước nghèo nhất thế giới chịu sự tàn phá nặng nề của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đang trên con đường hội nhập toàn cầu và phát triển kinh tế - thì điện lực là một nhân tố quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đã đề ra "xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của nền sản xuất. Đời sống vật chất tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dâu giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh".
Để đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong thời gian tới ngành điện phải có chiến lược phát triển từ nay đến 2010. Qua thực tế nhiều năm và hai năm đầu thực hiện chiến lược ngành điện còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu.
Thấy được tính thực tế của vấn đề nêu trên, kết hợp với quá trình thực tập tại Viện Chiến lược chính sách công nghiệp - Bộ Công nghiệp và sự giúp đỡ của cô giáo và các chuyên viên trong Viện. Em đã đi sâu nghiên cứu và chọn đề tài:
"Một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành Điện lực giai đoạn 2001 - 2010".
Bố cục của luận văn bao gồm:
Phần I: Sự cần thiết khách quan của chiến lược phát triển ngành Điện lực
Phần II: Thực trạng phát triển ngành điện lực Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000 và chiến lược phát triển giai đoạn 2001 - 2010
Phần III: Một số giải pháp thực hiện chiến lược phát triển ngành điện giai đoạn từ nay đến 2010
Do thời gian hạn hẹp cộng với kinh nghiệm thực tế còn ít nên bài viết không tránh khỏi những sai sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng cán bộ hướng dẫn và các bạn.
Phần I: Sự cần thiết khách quan của
chiến lược phát triển ngành điện lực
I- Đặc điểm và vai trò của ngành điện lực.
1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành điện.
Khác với nhiều loại hàng hoá của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân ngành điện có những đặc thù riêng của nó.
- Sản phẩm của ngành điện là điện năng (đơn vị: kwh) sản phẩm này được sản xuất và phân phối bằng các hình thức đặc biệt. Khác với các loại hàng hoá khác, trong quá trình sản xuất (phát điện), lưu thông, phân phối, truyền tải, cung ứng, tiêu thụ (quá trình chuyển hoá năng lượng điện thành dạng năng lượng khác) được diễn ra đồng thời trong cùng thời gian. Chính vì lẽ đó điện năng không thể tồn kho, tích trữ, cũng không có bán thành phẩm, phế phẩm. Điện năng sản xuất theo nhu cầu, sản xuất bao nhiêu, tiêu thụ bấy nhiêu. Tính đồng thời của quá trình sản xuất, phân phối tiêu thụ điện đòi hỏi các khâu sản xuất phải được tiến hành chặt chẽ, đồng bộ có sự phối hợp ăn khớp chặt chẽ trong toàn bộ quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng. Ngành điện là ngành đòi hỏi kỹ thuật cao. Để điều hành quá trình sản xuất phân phối đòi hỏi phải có một hệ thống quản lý tập trung. Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các nhà quản lý kinh doanh điện phải có quá trình dự báo phụ tải để có được phương thức tối ưu nhất trong việc huy động nguồn thuỷ điện, nhiệt điện (nhiệt điện than, dầu khí đốt) nhằm khai thác tối đa có hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp sẵn có trong thiên nhiên, đặc biệt là thuỷ điện.
Điện là ngành sản xuất tập trung nhưng tiêu dùng phân tán đòi hỏi mạng lưới điện trải theo chiều dài đất nước và đi vào các cụm dân cư, điều này đồng nghĩa với việc hao tổn điện năng trên đường tải và khó khăn trong công tác quản lý và tiêu dùng điện.
Điện là loại sản phẩm có thể sản xuất bằng nhiều công nghệ khác nhau như công nghệ về nhiệt điện, công nghệ về thuỷ điện về hạt nhân nhưng chất lượng điện là đồng nhất.
- Trong tổng sản lượng điện năng phát ra của Việt Nam thì điện năng từ thuỷ điện chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn bộ ngành (chiếm 54,1% tổng sản lượng), nhưng thuỷ điện lại phụ thuộc rất nhiều vào vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. Đó là nơi phải có sự chênh lệch về địa hình tạo ra lưu thông dòng chảy lớn như thuỷ điện Hoà Bình (Sông Đà), thuỷ điện Trị An, thuỷ điện Sơn La).
- Điện là ngành thuộc nhóm ngành công nghiệp nặng. Do vậy cũng như các ngành công nghiệp nặng khác ngành điện đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn. Ngoài các chi phí đầu tư để xây dựng các công trình phát điện ra, còn bao gồm chi phí đầu tư để xây dựng hệ thống truyền tải (máy biến áp + cột + hệ thống dây dẫn), chi phí về công tơ điện, chi phí về nhân sự v.v… Dự tính nhà máy thuỷ điện Sơn La chi phí đầu tư lên tới 4-5 tỷ USD.
2. Vai trò của ngành điện lực.
Trong thời đại ngày nay, khi xã hội loài người bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khoa học và công nghệ hiện đại thì nhu cầu về năng lượng nói chung và năng lượng điện nói riêng ngày càng cao, kinh nghiệm các nước trên thế giới và trong khu vực cho thấy: ở bất kỳ quốc gia nào trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì tốc độ phát triển của ngành năng lượng nói chung và của ngành điện nói riêng, bao giờ cũng có mức tăng trưởng nhanh hơn so với các ngành khác. Vì vậy đòi hỏi ngành điện lực phải luôn đi trước một bước, làm động lực thúc đầy nền kinh tế - xã hội phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện. Đúng như văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã khẳng định:
"Kinh nghiệm thực tế nhiều năm cho thấy, trong bước đầu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, vai trò của điện năng cực kỳ quan trọng. Nó quyết định nhịp độ phát triển của toàn bộ nền kinh tế và nâng cao đời sống xã hội".
Mục đích cuối cùng của các chính sách quốc gia suy cho cùng thường nhằm vào phát triển con người. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân làm cho chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện một cách nhanh chóng. Những lợi ích cơ bản mà điện mang lại đối với đời sống con người có thể khái quát như sau:
a. Điện đối với đời sống xã hội.
Để đánh giá chất lượng cuộc sống thì cần phải căn cứ vào 3 yếu tố: tuổi thọ bình quân; mức độ biết chữ và thu nhập bình quân đầu người (theo qui đổi ngoại tệ hoặc sức mua tương đương). Điện là nguồn nhân lực góp phần nâng cao đời sống con người, nâng cao dân trí và trình độ văn hoá giáo dục.
Điện góp phần làm tăng phúc lợi của con người thông qua hệ thống chiếu sáng về ban đêm. Điều này giúp cho con người có thể tiến hành các công việc sản xuất, học tập, vui chơi giải trí về ban đêm… tác động tích cực tới nền kinh tế đóng góp phần kích cầu đối với nền kinh tế, ngành công nghiệp giải trí gia tăng sản lượng trong các ngành kinh tế. Hệ thống chiếu sáng đô thị và các đường quốc lộ tác động không nhỏ tới hoạt động của ngành giao thông vận tải, không ngừng làm tăng dung lượng lưu chuyển hàng hoá của các thành phần kinh tế. Ngoài ra hệ thống chiếu sáng vào ban đêm còn tạo ra một cảnh quan môi trường trong sáng lành mạnh tác động gián tiếp tới lĩnh vực an ninh quốc phòng trong việc giữ gìn trật tự an ninh xã hội.
Không chỉ mang lại phúc lợi cho con người thông qua chiếu sáng. Điện còn góp phần làm thay đổi nếp sống và các phương tiện sử dụng trong gia đình. Việc sử dụng điện thay thế than trong nấu ăn là một phần đáng kể. Điều này mang lại lợi ích cho con người trong hai lĩnh vực: lĩnh vực kinh tế (giảm bớt thời gian, nhanh hơn, tiện hơn; và có tác dụng đối với bảo vệ môi trường sinh thái của con người. Thực tế là khi điện ra đời và phát triển thì các dụng cụ lao động dần dần được chuyển sang dùng điện, các dịch vụ gia đình được cung ứng tiện lợi hơn như quạt điện, bàn là, máy điều hoà nhiệt độ… không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện đời sống của con người.
Ngoài những lợi ích mà điện mang lại cho con người về mặt vật chất thì điện còn mang lại văn minh đối với đời sống con người, nâng cao dân trí, nâng cao đời sống xã hội thông qua phát thanh truyền hình. Qua đó vốn sống kinh nghiệm, khoa học kỹ thuật không được trau dồi giúp con người nắm bắt nhanh những kiến thức khoa học hiện đại, vận dụng vào sản xuất và đời sống. Đây là tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển của một nước.
b. Điện đối với phát triển kinh tế.
* Điện đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Đặc điểm chung của ngành nông nghiệp là sản xuất theo thời vụ và gián đoạn do vậy việc sử dụng điện trong sản xuất nông nghiệp cũng mang tính chất thời vụ nên sẽ là rất tốt nếu ngành nông nghiệp cũng đầu tư chung với các ngành khác của xã hội để phát triển điện. Vì ngành nông nghiệp thường là trọng tâm của các chương trình phát triển nông thôn, trước hết là phân phối lương thực rồi đến tạo công ăn việc làm, ngành nông nghiệp thường được ưu tiên trong các kế hoạch mở rộng mạng lưới điện đến các vùng nông thôn.
Mảng quan trọng mà điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là mục đích cấp nước và tưới tiêu. Một khi hệ thống thuỷ lợi vận hành tốt sẽ mang lại lợi ích về kinh tế rất lớn. Giúp cho mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp trên nhiều ruộng đất khác nhau mà vẫn đảm bảo có đủ nước tưới. Việc sử dụng điện thay thế dầu Dizen là các phương pháp cấp nước thủ công sẽ bảo đảm cung cấp nước tưới tiêu một cách kịp thời và ổn định góp phần làm tăng năng suất cây trồng và giải pháp bớt sức lao động của người nông dân. Đặc biệt là cây lúa thể hiện tính thời vụ một cách rõ nét vì vậy việc cung cấp nước phải kịp thời cho kịp thời vụ và cho cả một diện tích rộng đặc biệt là trong mùa khô. Vì vậy sự trợ giúp của điện trong việc tưới tiêu là rất quan trọng.
Ngoài công cụ bơm nước tưới tiêu, điện còn giúp cho các hộ nông dân giảm bởi thời gian lao động, thay thế lao động thủ công bằng việc áp dụng hàng loạt các loại máy móc cơ khí vừa và nhỏ vào thu hoạch mùa màng và chế biến sản phẩm. Điều này giúp cho việc tiến hành các hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra kịp thời vụ và góp phần nâng cao năng suất cây trồng. Trước khi chưa có các loại máy móc các nông sản chủ yếu được bán hoặc xuất khẩu thô chưa qua chế biến với giá trị thấp. Ngày nay công tác chế biến và bảo quản giúp cho giá trị kinh tế của nông sản và các sản phẩm nông nghiệp tăng cao. Vì vậy góp phần nâng cao thu nhập của toàn xã hội.
Ngoài ra điện còn tạo điều kiện phát triển các làng nghề truyền thống nhờ đưa máy móc sử dụng điện vào làm tăng năng suất lao động: mộc điêu khắc trên đá… như máy xẻ, cưa, cắt, khoan… góp phần xoá đói giám nghèo ở nông thôn.
+ Điện đối với quá trình công nghiệp hoá nông thôn:
Trước hết, đối với khu vực nông thôn, điện góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, nâng cao trình độ văn hoá giáo dục cho người dân nông thôn, giúp cho con người xã hội ngày càng phát triển. Điện giúp cho người dân nông thôn giảm bớt lao động thủ công, có điều kiện áp dụng máy móc vào sản xuất, góp phần làm tăng lợi ích kinh tế đối với nông sản, tăng năng suất cây trồng, tăng thâm canh gối vụ làm cho hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ngày càng cao, đây là nhân tố tạo động lực cho sự phát triển kinh tế ở mỗi địa phương.
Thứ hai, điện khí hoá nông thôn giúp cho mỗi địa phương, mỗi tỉnh khai thác tối đa tiềm năng vốn có của mình, giúp đa dạng hoá ngành nghề, mở rộng sản xuất, sản xuất gia tăng xuất khẩu nâng cao đời sống nhân dân. Điện phát triển gắn liền với việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, có tác động qua lại thúc đẩy sự phát triển các vùng lạc hậu. Đối với mỗi địa phương, điện tạo đà phát triển cho tất cả các ngành nghề truyền thống, các loại hình sản xuất dịch vụ đơn lẻ, tạo ra sự kết nối tương trợ nhau trong các loại hình sản xuất trong vùng, giúp vùng phát triển một cách đồng bộ.
Thứ ba, ngày nay giữa khu vực nông thôn và thành thị luôn tồn tại một dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị với kỳ vọng của người nông dân về cuộc sống hiện đại, có thu nhập cao ở thành thị. Nếu những điều kiện trên được áp dụng ngay tại các làng quê thì sẽ góp phần thúc đẩy phát triển các khu vực nông thôn, giảm bớt chênh lệch giữa nông thôn và thành thị điều này đồng nghĩa với việc mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho khu vực thành thị, thông qua việc làm giảm sức ép về nhà ở, y tế, giáo dục ở các đô thị góp phần ngăn ngừa các tệ nạn xã hội.
+ Điện góp phần tạo điều kiện phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng nông thôn: Điện, đường, trường, trạm là những hạ tầng cơ sở quan trọng đối với phát triển nông thôn. Vì vậy để phát triển khu vực nông thôn nước ta thì việc phát triển điện nông thôn là hết sức cần thiết trong việc phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng. Nếu như ta xây dựng được đường, trường, trạm thì các thiết bị sử dụng trong đó nếu như không có điện thì sẽ không phát huy được hiệu quả.
* Vai trò của điện với phát triển công nghiệp.
Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ đạo của nền kinh tế là xương sống của nền kinh tế. Việc phát triển công nghiệp là tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ phát triển của một đất nước. Công nghiệp cung cấp máy móc thiết bị, nguyên vật liệu công cụ sản xuất cho tất cả các ngành kinh tế. Ngược lại công nghiệp là nơi tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất của các ngành khác. Trước đây ngành công nghiệp ra đời và phát triển bắt đầu bằng máy hơi nước, động cơ Dizen và khi điện ra đời dần thay thế các nguồn năng lượng trong công nghiệp góp phần phát triển ngành công nghiệp. Vì vậy vai trò của điện đối với công nghiệp là vô cùng quan trọng. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư năm 1990 điện dùng cho sản xuất công nghiệp chiếm 46% tổng điện năng thương phẩm sản xuất ra (2848,6 triệu kwh) và đến năm 2000 là 8145 triệu kwh (37%). Như vậy, mặc dù con số tương đối về tỷ lệ sử dụng điện cho công nghiệp có giảm đi nhưng mức sản lượng điện về mặt tuyệt đối sử dụng cho công nghiệp tăng rất nhanh. Điện sử dụng cho công nghiệp là rất lớn chiếm gần một nửa sản lượng điện năng thương phẩm sản xuất ra, điều đó cho thấy điện có vai trò rất to lớn đối với hoạt động sản xuất công nghiệp, nó là nguồn năng lượng chính không thể thay thế trong ngành công nghiệp điện giúp cho sản xuất được cải tiến, năng suất lao động không ngừng gia tăng. Điện cho phép áp dụng nhiều máy móc với kỹ thuật hiện đại vào sản xuất.
Có thể khẳng định rằng không một ngành công nghiệp, một hoạt động sản xuất công nghiệp nào là không phải sử dụng điện. Do vậy, điện có tầm quan trọng hàng đầu quyết định tới kết quả hoạt động của ngành công nghiệp.
* Vai trò của điện với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đứng trước những thời cơ, thuận lợi và những nguy cơ thử thách mới, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ VII của Đảng đã xác định "Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá" và coi "đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu thời gian tới" Hội nghị cũng đã xác định "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, giữ vững được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa".
Cơ cấu kinh tế có thể hiểu là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế cùng các mối quan hệ chủ yếu về định tính và định lượng, ổn định và phát triển giữa các bộ phận ấy với nhau hay của toàn bộ hệ thống trong điều kiện của một nền sản xuất xã hội trong hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở quan hệ tỷ lệ mà quan trọng hơn là mối quan hệ tác động qua lại về nội dung bên trong của hệ thống kinh tế.
Cơ cấu kinh tế bao gồm: cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế v.v..
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình phát triển các bộ phận của nền kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giưã các bộ phận đó và làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so với thời điểm trước đó.
- Nhìn lại 15 năm đổi mới ta thấy cơ cấu kinh tế đã có một bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp tăng khá về giá trị tuyệt đối song tỷ trọng giảm từ 38,7% (năm 1990) xuống còn 25% (năm 2000) tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên khoảng 34,5%; dịch vụ từ 38,6% lên 40,5% trong GDP. Để làm được như vậy đóng góp của ngành điện không nhỏ. Nhờ có điện trong ngành nông nghiệp có thể đưa máy móc vào thực hiện một số khâu: tưới tiêu, sấy, đông lạnh… giúp cho bảo quản tốt nông sản, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản làm cho giá trị ngành nông nghiệp tăng liên tục ngoài ra còn giải phóng bớt một phần lao động nông nghiệp sang hoạt động các ngành khác. Đối với công nghiệp, điện có vai trò vô cùng quan trọng, tất cả các nhà máy, xí nghiệp đều sử dụng điện, và điện còn giúp cho đưa được máy móc, công nghệ hiện đại vào sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng khối lượng và giá trị ngành công nghiệp và tốc độ tăng công nghiệp thời gian qua là 12,9%.
- Xét về mặt cơ cấu lãnh thổ có sự tồn tại chênh lệch giữa các vùng phát triển và khó khăn. Vì vậy cần phải có chính sách hợp lý để các vùng phát triển có điều kiện bức lên để theo kịp xu thế hội nhập; các vùng khó khăn làm thế nào phải bớt khó khăn hơn có nhiều điều kiện hơn để khai thác tiềm năng của vùng. Để làm được điều đó có một phần đóng góp không nhỏ của ngành điện vì điện là một trong yếu tố của kết cấu hạ tầng dù ở đâu muốn phát triển phải có hệ thống kết cấu hạ tầng tốt. ở các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn điện có vai trò đáp ứng đủ nhu cầu để phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp, tạo ra một sức bật lớn đối với cả nước và tạo ra sức lan toả đối với các khu vực xunh quanh tạo điều kiện khai thác các nguồn nội lực và vốn từ bên ngoài. Đối với các vùng nghèo khó khăn, Nhà nước ta có chương trình 135 đưa điện về tới các vùng sâu vùng xa hải đảo, miền núi để nâng cao đời sống nhân dân nâng cao trình độ văn hoá xã hội, hiểu biết thông qua các phương tiện thông tin đại chúng dùng điện: ti vi, đài, loa phát thanh. Như vậy điện có vai trò quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế để giảm bớt chênh lệch khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị - nông thôn; giữa miền xuôi - miền ngược.
II- Sự cần thiết của chiến lược phát triển ngành điện lực
1. Chiến lược và phân loại chiến lược theo phạm vi.
1.1. Chiến lược.
Thuật ngữ "chiến lược" có nguồn gốc từ rất lâu, trước đây thuật ngữ này được sử dụng đầu tiên trong lĩnh vực quân sự. Ngày nay thuật ngữ này đã được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực chính trị kinh tế, và văn hoá xã hội. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế ở cả phạm vi vĩ mô và vi mô. ở phạm vi vĩ mô chúng ta có các thuật ngữ: "chiến lược phát triển kinh tế xã hội"; "chiến lược phát triển ngành"; "chiến lược hướng nội (hướng ngoại). ở phạm vi vi mô, thuật ngữ chiến lược cũng được kết hợp với các khái niệm, phạm trù quản lý doanh nghiệp hình thành các thuật ngữ "chiến lược marketing", "chiến lược sản xuất", "chiến lược kinh doanh", v.v.
Sự xuất hiện các khái niệm trong lĩnh vực kinh tế không chỉ là sự vay mượn khái niệm mà bắt nguồn từ sự cần thiết phải ánh thực tiễn khách quan của quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường.
"Chiến lược" thường được hiểu là hướng và cách giải quyết nhiệm vụ đặt ra mang tính toàn cục, tổng thể và trong thời gian d