Đề tài Một số kinh nghiệm về bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử

Bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những hoạt động vất vả, khó khăn và thử thách đối với những người làm nghề dạy học. Bồi dưỡng học sinh giỏi cũng là công tác cực kì quan trọng giúp cho ngành giáo dục phát hiện nhân tài, lựa chọn những mầm giống tương lai cho đất nước trong sự nghiệp trồng người. Đồng thời giúp cho học sinh thực hiện được ước mơ là con ngoan, trò giỏi và có định hướng đúng về nghề nghiệp của mình trong tương lai. Thực tế trong những năm qua, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được lãnh đạo các trường và phòng giáo dục chú trọng, quan tâm. Song chất lượng mũi nhọn của ngành giáo dục huyện nhà đạt hiệu quả chưa cao, chưa ngoạn mục, khi tăng khi giảm. Chưa có tính bền vững (đặc biệt là bộ môn lịch sử).

doc38 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 5974 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số kinh nghiệm về bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời giới thiệu A - PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. 1) Lí do khách quan. 2) Lí do chủ quan. II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ. 1) Thuận lợi 2) Khó khăn. III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU . IV. TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU . B - NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI . I. CÁCH TUYỂN CHỌN ĐỐI TƯỢNG ÔN THI. II. PHƯƠNG PHÁP ÔN LUYỆN HỌC SINH GIỎI BỘ MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ. 1) PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI Lịch sử thế giới cổ đại(lớp6). Lịch sử thế giới trung đại( lớp7). Lịch sử thế giới cận đại (lớp8). Lịch sử thế giới hiện đại(lớp8+9). 2) PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ X(lớp6). Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX( lớp7). Lịch sử Việt Nam từ1858-1918 ( lớp8). Lịch sử Việt Nam từ 1919-1954( lớp9). * Giai đoạn Việt Nam từ (1919-1930). * Giai đoạn Việt Nam từ (1930-1945). * Giai đoạn Việt Nam từ ( 1945-1954). III. MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP. 1) Câu hỏi phần lịch sử thế giới. 2) Câu hỏi phần lịch sử Việt Nam. IV.RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TƯ DUY VÀ SÁNG TẠO CHO HỌC SINH. V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. C - KẾT LUẬN. Lời giới thiệu: Học,học nữa, học mãi! Danh ngôn nổi tiếng của Lê - Nin là hành trang theo tôi suốt cả cuộc đời. Thật vây! Gần 30 năm qua đứng trên bục giảng, bản thân không ngừng phấn đấu học hỏi: Học ở bậc thầy cô, học ở trường lớp, học ở đồng chí, đồng nghiệp ,học ở sách báo, ở mọi phương tiện và luôn luôn tự hoàn thiện mình để góp một phần nho nhỏ cho ngành giáo dục huyện nhà . Giờ đây đứng trước thời kì hội nhập kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng của mạng Internet và văn hóa ngoại bang đã tràn vào nước ta qua nhiều phương tiện không thể kiểm soát hết, có tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ Việt Nam. Làm cho học sinh huyện nhà nói riêng và cả nước nói chung lơ là trong các môn học phụ nhất là bộ môn lích sử( minh chứng được thống kê qua các kì thi tuyển chọn hoặc các kì thi tốt nghiệp phổ thông). Băn khoăn trước thực trạng đó , là một giáo viên có nhiều năm công tác trong nghề và liên tục có nhiều học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Tôi mạo muội trình bày một số kinh nghiệm của mình về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử. Rất mong được sự góp ý bổ sung của tổ nghiệp vụ, các đồng chí, đồng nghiệp để đề tài được phong phú hoàn thiện. Giáo Viên Lịch Sử Bùi Thị Liệu A - PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1) Lí do khách quan: Bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những hoạt động vất vả, khó khăn và thử thách đối với những người làm nghề dạy học. Bồi dưỡng học sinh giỏi cũng là công tác cực kì quan trọng giúp cho ngành giáo dục phát hiện nhân tài, lựa chọn những mầm giống tương lai cho đất nước trong sự nghiệp trồng người. Đồng thời giúp cho học sinh thực hiện được ước mơ là con ngoan, trò giỏi và có định hướng đúng về nghề nghiệp của mình trong tương lai. Thực tế trong những năm qua, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được lãnh đạo các trường và phòng giáo dục chú trọng, quan tâm. Song chất lượng mũi nhọn của ngành giáo dục huyện nhà đạt hiệu quả chưa cao, chưa ngoạn mục, khi tăng khi giảm. Chưa có tính bền vững (đặc biệt là bộ môn lịch sử). 2) Lí do chủ quan: Bản thân tôi là một giáo viên thuộc trường trung học cơ sở Hoàng Hoa Thám. Thành tích bồi dưỡng học sinh giỏi của tôi gắn liền với chất lượng mũi nhọn của trường. Trường trung học cơ sở Hoàng Hoa Thám được thành lập ngày 31 tháng 8 năm 2001. Được ban giám hiệu tạo điều kiện và tin tưởng phân công tôi giảng dạy một số lớp khối 9 thuộc bộ môn lịch sử. Một môn học ít tiết, được coi là phụ không mấy ai quan tâm. Song bằng năng lực chuyên môn cùng tâm huyết với nghề, bảy năm liên tục tôi có học sinh giỏi cấp tỉnh (trong đó có 1 giải nhì, ba giải 3, hai giải khuyến khích và hai công nhận). Thành tích đạt được của học sinh chính là thước đo của nhà giáo. Tôi mạnh dạn trình bày những kinh nghiệm có được của mình trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn lịch sử để các đồng chí đồng nghiệp tham khảo. Nhằm đưa sự nghiệp giáo dục của huyện CưMGar ngày một nâng cao ngang tầm với các đơn vị bạn, trở thành tốp đầu trong tỉnh. II. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ. Thuận lợi: - Được sự chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường . - Sự tạo điều kiện của giáo viên chủ nhiệm và các đồng chí, đồng nghịêp. - Học sinh xã CưDlêMnông có tinh thần hiếu học, cán bộ và nhân dân địa phương có sự quan tâm . - Bản thân có nhiều năm công tác trong nghề, có nhiều kinh nghiệm trong ôn luyện học sinh giỏi - Đặc biệt môn lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Học lịch sử để biết được cội nguồn của dân tộc, quá trình đấu tranh anh dũng và lao động sáng tạo của ông cha. Học lịch sử để biết quý trọng những gì mình đang có, biết ơn những người làm ra nó và biết vận dụng vào cuộc sống hiện tại để làm giàu thêm truyền thống dân tộc. 2) Khó khăn: Do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời sống xã hội. Một số học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần làm bài tập, không cần học thêm phí công vô ích. Dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến trong thực tế ở nhiều trường. Do ảnh hưởng của thời kì hội nhập, của phim truyện nước ngoài, của mạng Internet, của các trò chời điện tử… Đã ảnh hưởng không nhỏ đến những học sinh thiếu động cơ thái độ học tập, sao nhãng việc học hành dẫn đến liệt môn, nhất là bộ môn lịch sử . Chưa loại bỏ được cách giáo dục - học tập mang tính thực dụng. Xem nặng môn này, coi nhẹ môn kia hoặc “thi gì học nấy” làm cho học vấn của học sinh bị “què quặt” thiếu toàn diện. Tình trạng “mù lịch sử” hiện nay ở không ít học sinh phổ thông là tai hại của việc học lệch, không toàn diện. Thầy giáo dạy lịch sử bị xem thường, không được coi trọng như các thầy cô thuộc khoa học tự nhiên, ngoại ngữ,… Giáo viên dạy lịch sử cũng rất nghèo về kinh tế. Mức thu nhập chủ yếu chỉ dựa vào đồng lương chính đáng ngoài ra hiếm có cơ hội của những nguồn thu khác. III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU : Mục đích nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm này là nhằm đưa ra một số kinh nghiệm, bí quyết ôn luyện học sinh giỏi môn lịch sử (chọn đối tượng học sinh, phương pháp ôn luyện , kết quả đạt được ) . IV. TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU : Sách giáo khoa lịch sử lớp 6 , 7 , 8 , 9 . Một số tài liệu tham khảo khác như danh nhân lịch sử, sách nâng cao… Một số đề thi cấp huyện, cấp tỉnh môn lịch sử . B - NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI I.CÁCH TUYỂN CHỌN ĐỐI TƯỢNG ÔN THI Công tác tuyển chọn học sinh dự thi xin phép được nói rộng ra hai khối tự nhiên và xã hội: - Đối với khối tự nhiên: Học sinh giỏi toán, chắc chắn sẽ học khá các môn lí, hoá, sinh. - Đối với khối xã hội: Học sinh học giỏi môn ngữ văn, ắt sẽ học khá môn lịch sử. Từ thực tế đó giúp ta dễ dàng trong khâu tuyển chọn song học sinh cứ xem thường môn lịch sử cho đó là môn học phụ. Mặt khác giáo viên dạy môn lịch sử cũng thường bị lép vế trong khâu tuyển chọn học sinh, phải lựa chọn đối tượng sau cùng. Những em có năng khiếu đặc biệt thường thích ôn luyện các môn học tự nhiên. Vì có kiến thức cơ bản, vững vàng các em cần nắm rõ các công thức, quy tắc, định nghĩa, định lí rồi linh hoạt nhạy bén, áp dụng để làm bài. Còn các môn học ít tiết như lịch sử, địa lí cần học bài dài và nhiều nên phần đông các em rất chán.Bởi vậy giáo viên cần động viên, khuyến khích thì học sinh mới chịu đi ôn. Mặt khác giáo viên phải biết khơi dậy ở học sinh niềm tự hào, hãnh diện khi đỗ đạt. Đã là học sinh giỏi cấp tỉnh có giải thì đương nhiên bất cứ môn học nào cũng được hưởng chế độ ưu tiên ngang nhau và vinh quang như nhau. Trong công tác tuyển chọn cũng cần lưu ý về vấn đề tâm lý học sinh. Tâm lí vững vàng, bình tĩnh, tự tin thì bài làm sẽ đạt kết quả cao. Ngược lại tâm lí hoang mang, giao động, sợ sệt thì chất lượng bài làm sẻ kém. Bởi vậy giáo viên ôn luyện cũng phải biết trấn tỉnh niềm tin cho đối tượng ôn thi. Khi lựa chọn được đối tượng để ôn rồi thì giáo viên phải biết yêu nghề tận tụy với nghề. Yêu trẻ tận tụy với trẻ. Luôn luôn biết khích lệ, níu kéo các em vào niềm ham mê yêu thích bộ môn. Đồng thời giáo viên cũng phải biết xây dựng vun đắp uy tín của mình để có được lòng tin đối với học sinh. II. PHƯƠNG PHÁP ÔN LUYỆN HỌC SINH GIỎI BỘ MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ - Ôn luyện học sinh giỏi không giống như tiết dạy ở lớp học bình thường. Vì ở lớp ta dạy cho học sinh phù hợp với ba đối tượng ( khá giỏi, trung bình và yếu kém). Song dạy cho học sinh đi thi có nghĩa là ta đưa các em “mang chuông đi đánh đất người”. Đối tượng dự thi đều ngang tầm nhau về mặt học lực, nhận thức. Vì vậy ngoài kiến thức sách giáo khoa giáo viên cần có thêm tài liệu nâng cao, để giúp đối tượng dự thi học sâu, hiểu rộng. - Thứ hai là người dạy phải có niềm tin và tâm huyết với nghề. Phải biết băn khoăn, trăn trở khi học sinh không hiểu bài, biết vui mừng phấn khởi khi học sinh thành đạt. Hay nói cách khác là người dạy phải lấy kết quả của học sinh làm thước đo tay nghề của nhà giáo. - Yếu tố cơ bản nhất là người dạy luôn luôn biết tự hoàn thiện mình. Có tâm huyết với nghề chưa đủ, hơn thế nữa phải có năng lực chuyên môn vững vàng, biết xác định được kiến thức trọng tâm, biết làm chủ điều mình dạy và phải biết dạy học sinh cách học để học sinh bình tĩnh, tự tin lĩnh hội kiến thức và tư duy sáng tạo. Nâng quan điểm từ biết để hiểu để vận dụng vào làm bài. Thực tế cho thấy học sinh nhiều trường dự thi học sinh giỏi, mặc dù thang điểm 20 song kết quả một số thí sinh chỉ đạt: 0.5;1;2;3;… Lí do là người dạy và người học hời hợt, thiếu đầu tư, được chăng hay chớ hoặc chưa xác định được cách ôn luyện, chỉ tập trung vào kiến thức lớp 9. Theo bản thân tôi đã là học sinh giỏi thì phải được trang bị kiến thức tương đối toàn diện. Hiểu khái quát được đặc trưng của bộ môn lịch sử là tìm hiểu, nghiên cứu những hoạt động của con người và xã hội loài người từ khi xuất hiện cho đến ngày nay. Cách mạng Việt Nam có quan hệ mật thiết với cách mạng thế giới. Cho nên phương pháp ôn luyện của tôi là: - Hệ thống hóa kiến thức cơ bản bằng phân kỳ lịch sử - Chốt kiến thức trọng tâm bằng hệ thống câu hỏi, bài tập. - Rèn kỹ năng tư duy, sáng tạo cho học sinh. 1) PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI a) Lịch sử thế giới cổ đại (lớp 6). Nắm được sự xuất hiện của nhà nước cổ đại phương Đông, phương Tây. Nhà nước cổ đại phương Đông hình thành trên lưu vực các dòng sông lớn. Ngược lại nhà nước cổ đại phương Tây lại được hình thành ở đảo, bán đảo. Bởi vậy hình thái kinh tế, xã hội, văn hoá cũng khác nhau. Những công trình kiến trúc đồ sộ nổi tiếng còn tồn tại đến ngày nay như Kim Tự Tháp ( Ai Cập), vườn treo Babilon (Lưỡng Hà), tượng thần Dớt( Hi Lạp), đấu trường Côlidê (Rô Ma), … b) Lịch sử thế giới trung đại( lớp7). - Sự phát sinh, phát triển của nhà nước phong kiến ở châu Âu, châu Á, Đông Nam Á. - Nguyên nhân, nội dung, hệ quả của cuộc phát kiến địa lí. - Vai trò của nền văn hoá phục hưng. - Phong trào đấu tranh của nông dân chống phong kiến. c) Lịch sử thế giới cận đại( lớp 8). - Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, các cuộc cách mạng tư sản. - Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Những đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc. - Chiến tranh thế giới thứ nhất. - Phong trào công nhân và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học. - Vai trò của Mác – Ăng Gen và sự ra đời quốc tế thứ nhất, quốc tế thứ hai( hoàn cảnh ra đời, hoạt động, tác dụng đối với phong trào cách mạng thế giới. - Công xã Pari - nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Học sinh vẽ được sơ đồ nhà nước và lấy dẩn chứng công xã Pari là nhà nước kiểu mới. d) Lịch sử thế giới hiện đại ( lớp 8-9) Gồm hai giai đoạn: 1917-1945 (lớp 8) và 1945 đến nay ( lớp 9). - Cách mạng tháng Mười Nga thành công 1917 và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô (1921-1941) . - Nước Mĩ, châu Âu, châu Á giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. - Chính sách mới của Ph.Ru-Giơ-Ven. - Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945). - Sự phát triển của khoa học kỉ thuật và văn hoá thế giới từ nửa đầu thế kỉ XX. - Liên Xô và các nước Đông Âu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. - Các nước Á – Phi - Mĩ La Tinh từ 1945 đến nay. - Sự ra đời và hoạt động của hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) và quốc tế cộng sản (quốc tế thứ 3) - Ba trung tâm kinh tế tài chính của thế giới (Mĩ, Nhật Bản, các nước Tây Âu) - Quan hệ quốc tế từ 1945 đến nay. - Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ hai. 2. PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM a) Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ X (lớp 6). + Thời đại dựng nước Văn Lang – Âu Lạc: Lí do ra đời nhà nước Văn Lang.đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Văn Lang. Công lao to lớn của vua Hùng Vương trong buổi đầu dựng nước được Bác Hồ hằng căn dặn : Các Vua Hùng có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Nước Âu Lạc ra đời trong hoàn cảnh nào? Bài học mất nước đầu tiên của An Dương Vương để lại thật là thấm thía: Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu Nỏ thần sơ ý trao tay giặc Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu. Văn minh Văn Lang-Âu Lạc để lại cho chúng ta: Tổ quốc, thuật luyện kim, nông nghiệp lúa nước, phong tục tập quán riêng và bài học đầu tiên về công cuộc giữ nước. Cho học sinh vẽ và giải thích được sơ đồ nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. + Thời kì bắc thuộc và đấu tranh giành độc lập: Xuất hiện hai vị nữ anh hùng dân tộc đã ghi vào lịch sử như một mốc son chói lọi đó là Trưng Trắc, Trưng Nhị hai chị em con nhà lạc tướng huyện Mê Linh. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, căm thù chính sách đồng hoá dân tộc và cống nộp của nhà Đông Hán. Nợ nước, thù nhà đè nặng lên đôi vai người phụ nữ ,Trưng Trắc đã quyết tâm đi đánh giặc với lời thề son sắt. sau này được sách “Thiên Nam Ngữ Lục” chép thành bốn câu thơ: Một xin rửa sạch nước thù Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng Ba kẻo oan ức lòng chồng Bốn xin vẻn vẹn chữ công lệnh này. Khởi nghĩa hai bà Trưng bùng nổ tháng ba năm bốn mươi tại cửa Hát, Hát Môn, Hà Tây đã đi vào lịch sử như một chiến công hiển hách chống giặc ngoại xâm. Nâng cao lòng tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử chống giặc ngoại xâm: Phất cờ khởi nghĩa là phụ nữ, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là phụ nữ và dựng nước xưng vương cũng lại là phụ nữ chưa có một dân tộc nào, một quốc gia nào lại có được niềm vinh quang như vậy. Hơn hai trăm năm sau xuất hiện cuộc khởi nghĩa bà Triệu Thị Trinh (248):Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi đánh đuổi quân Ngô chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người. Tiếp theo là cuộc khởi nghĩa của Lí Bí năm 542 đánh đuổi quân Lương và lập ra đất nước có quốc hiệu là Vạn Xuân. Để lại bài học đánh giặc bằng lối du kích của Triệu Quang Phục: Đầm Dạ Trạch lừng danh nơi hiểm yếu. Kế tục là cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, Phùng Hưng. + Bước ngoặt lịch sử ở đầu thế kỉ X : Đó là cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương. Đặc biệt là: Ngô Quyền Bạch Đằng Giang bất tử Thành mồ chôn quân Nam Hán hung tàn. Cho đến nay sông Bạch Đằng còn đó, nước sông vẫn chảy hoài mà nhục quân thù không rửa hết. Bởi nghệ thuật quân sự có tính toán kỉ lưỡng dùng cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông, hai bên bờ cho quân mai phục và lợi dụng nước thuỷ triều để đánh giặc. Một chiến thắng lẫy lừng kết thúc hơn một nghìn năm Bắc thuộc, mở ra kì nguyên nhà nước phong kiến Việt Nam ra đời. b)Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX (lớp 7). Là quá trình hình thành và phát triển của các triều đại phong kiến bằng những hình thái chính trị , kinh tế , xã hội khác nhau gắn với các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm mà tương quan lực lượng quá chênh lệch giữa ta và địch : Thế trận xuất kì lấy yếu chống mạnh Dùng quân mai phục láy ít địch nhiều. song với nghệ thuật quân sự tài tình , với lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất quân và dân ta đã làm nên những chiến thắng vẻ vang . Nhà nước phong kiến Việt Nam được hình thành và phát triển theo các triều đại sau: - Triều đại nhà Ngô (939 - 968 ) mở đầu cho nhà nước phong kiến Việt Nam của dân tộc ta. Ngô Quyền xưng Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Triều đình gồm ban văn và ban võ. Phong chức tước cho người có công, cử tướng giỏi trông coi các Châu quan trọng. Ngô Quyền mất (944) hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn còn nhỏ tuổi bị em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi. Năm 950 Ngô Xương Văn phục quốc song do mâu thuẫn nội bộ, uy tín nhà Ngô giảm sút. Năm 965 Ngô Xương Văn chết, đất nước xẩy ra loạn 12 sứ quân. - Triều đại nhà Đinh (968 - 980 ) tên nước là Đại Cồ Việt , kinh đô Hoa Lư . Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng đã có công dẹp loạn 12 sứ quân và thống nhất đất nước song đất nước thái bình chưa được bao lâu, năm 979 Đinh Tiên Hoàng và con trai là Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại, nhân cơ hội đó nhà Tống lăm le xâm phạm bờ cõi Đại Cồ Việt. Trước tình thế hiểm nghèo, thái hậu Dương Văn Nga đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích gia đình, dòng họ đã trao chiếc áo hoàng bào cho thập đạo tướng quân Lê Hoàn mở ra một triều đại mới chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. - Triều đại nhà Tiền Lê (980 - 1009 ) tên nước cũng là Đại Cồ Việt đã chiến thắng quân xâm lược Tống giành thắng lợi ở sông Bạch Đằng . Nhà Tiền Lê chia nước thành 10 lộ, thịnh hành ở thời vua Lê Đại Hành và suy vong thời vua Lê Long Đỉnh tức Lê Ngọa Triều. cuối năm 1009 Lê Long Đỉnh chết, các triều thần lúc đó cùng nhau suy tôn điện tiền chỉ huy sứ Lí Công Uẩn lên làm vua, triều Lý thành lập. - Triều đại nhà Lý (1009 -1226 ) Lí Thái Tổ đã có công dời đô từ Hoa Lư về Đại La đổi tên là Thăng Long (1010). Năm 1054 đổi tên nước là nước Đại Việt, chia nước thành 24 lộ, dưới lộ là phủ, châu, huyện xã. Về văn bản pháp lí: Nhà Lí có bộ luật Hình thư(1042). Về quân đội thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”. Nhà Lí hai lần đánh thắng quân xâm lược Tống: lần thứ nhất (1075 ) , lần thứ hai (1077 ). Cách đánh giặc của Lí Thường Kiệt rất độc đáo : Một là tấn công để tự vệ đó là mở cuộc tập kích vào đất Tống nhằm mục đích làm tiêu hao sinh lực địch trước khi địch đem quân xâm chiếm nước ta. Phòng thủ để tấn công: Xây dựng phòng tuyến Như Nguyệt, một địa điểm cách xa biên giới nhưng gần Thăng Long , khiến cho quân Tống khi tiến vào nước ta bị phòng tuyến Như Nguyệt chặn lại, chúng rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan , khiến cho tướng giặc Quách Quỳ thất vọng, ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém.” chuyển sang thế phòng ngự . Hơn 40 ngày bị cầm chân , quân tiếp viện không đến , lương thực cạn dần , binh lính bị ốm đau, chết dần, chết mòn . Nắm được tình hình bế tắc của địch, Lí Thường Kiệt đã sáng tác bài thơ thần “ Sông núi nước Nam” được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước ta, nhằm giảm nhuệ khí quân giặc, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân ta và khẳng định chủ quyền dân tộc. Mặt khác nhận thấy chiến tranh đã đến hồi kết thúc, chủ động đề nghị giảng hòa , Quách Qùy chấp nhận ngay. Đây là kiểu kết thúc chiến tranh độc đáo, thể hiện tinh thần nhân nghĩa của dân tộc ta, muốn mở đường hiếu sinh cho người thất thế, mục đích để giữ mối quan hệ tốt giữa Đại Việt và nước Tống . Vị vua cuối cùng của triều Lí là Lí Chiêu Hoàng. - Triều đại nhà Trần (1226 -1400), tên nước cũng là Đại Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên , một thứ giặc được coi là hùng mạnh nhất lúc bấy giờ. Bằng chiến thuật “vườn không nhà trống”, rút lui để bảo toàn lực lượng, khi giặc rơi vào tình thế khó khăn lương thực cạn kiệt, vì thời tiết và lạ phong thổ quân lính ốm đau, mệt mỏi chán nản, quân ta đã tổ chức phản công và giành thắng lợi vẻ vang (lần1: 1258, lần 2: 1285, lần 3:1287-1288). thắng lợi của ba lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên đã đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Nguyên, bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh thổ của chủ quyền quốc gia . Góp phần xây đắp nên truyền thống quân sự Việt Na
Tài liệu liên quan