Ngoại giao là một vấn đề vô cùng quan trọng của mỗi một quốc gia, ngay từ buổi đầu dựng n¬ước vấn đề đối ngoại đã đ¬ược ông cha ta quan tâm đặc biệt. Mục đích của chính sách đối ngoại này là duy trì độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ, chính vì vậy trong các bộ sử x¬a các nhà sử học đã giành rất nhiều trang viết để ghi lại những sự kiện ấy. Trong những trang viết về ngoại giao đó chúng ta thấy nổi lên vai trò vô cùng to lớn của các sứ thần, họ là những ng¬ời đại diện cho một quốc gia, quyết định vận mệnh của một đất nước, một triều đại, là cầu nối giữa n¬ứơc ta với các n¬ước khác. Bởi vậy mà cũng có rất nhiều nhà sử gia đã thống kê về sứ thần Việt Nam qua các triều đại nh¬ư:
- Tác giả Phan Huy Chú: Lịch triều hiến ch¬ương loại chí, tập 3.
- Tác giả Lê Tắc: An Nam chí lược
Với thời gian và trình độ có hạn, ở đây người viết giới hạn lại trong việc thống kê các sứ thần Đại Việt thời Lý - Trần - Lê trên cơ sở bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
33 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số sứ thần của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Giới thiệu về đề tài
Ngoại giao là một vấn đề vô cùng quan trọng của mỗi một quốc gia, ngay từ buổi đầu dựng nước vấn đề đối ngoại đã được ông cha ta quan tâm đặc biệt. Mục đích của chính sách đối ngoại này là duy trì độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ, chính vì vậy trong các bộ sử xa các nhà sử học đã giành rất nhiều trang viết để ghi lại những sự kiện ấy. Trong những trang viết về ngoại giao đó chúng ta thấy nổi lên vai trò vô cùng to lớn của các sứ thần, họ là những ngời đại diện cho một quốc gia, quyết định vận mệnh của một đất nước, một triều đại, là cầu nối giữa nứơc ta với các nước khác. Bởi vậy mà cũng có rất nhiều nhà sử gia đã thống kê về sứ thần Việt Nam qua các triều đại như:
- Tác giả Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3.
- Tác giả Lê Tắc: An Nam chí lược
Với thời gian và trình độ có hạn, ở đây người viết giới hạn lại trong việc thống kê các sứ thần Đại Việt thời Lý - Trần - Lê trên cơ sở bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
Mục đích của em khi nghiên cứu đề tài này là hiểu thêm về sứ thần Đại Việt thời Lý - Trần - Lê, qua đó cũng hiểu thêm về quan hệ ngoại giao của các triều đại ấy, và bước đầu rút ra một vài nhận xét.
Cũng qua đây, em xin chân thành cảm ơn cô giáo: Đặng Thị Thuỳ Hiên đã tận tình giúp đỡ em, tạo điều kiện và hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
1.2. Bố cục niên luận
1. Phần mở đầu
1.1. Giới thiệu đề tài.
1.2. Bố cục bài niên luận.
2. Phần nội dung.
2.1. Nhà Trần.
2.2. Nhà Lê
3. Nhận xét chung.
3.1. Tìm hiểu tiểu sử của một số sứ thần.
3.2. Mục đích đi sứ.
3.3. Các lễ vật cống sính.
3.4. Quan hệ ngoại giao thời Lý- Trần- Lê.
4. Kết luận.
NHẬN XÉT CHUNG
Ngoại giao là một vấn đề vô cùng quan trọng, bởi lẽ khi nói đến một quốc gia không thể không nói đến đường lối đối nội và đối ngoại của quốc gia đó, nó quy định đến sự tồn suy, thịnh vong của mỗi quốc gia. Với lịch sử dựng nước hàng nghìn năm, Đại Việt là một nước nhỏ tiếp giáp với những nước láng giềng khác nhau, có những nước lớn như: Trung Hoa hùng mạnh và một số nước khác, dù lớn hay nhỏ thì các nước đó đều có tham vọng bành trướng. Trong bối cảnh địa lí chính trị như thế, Đại Việt đã tự vạch cho mình một đường lối chính trị thích hợp đó là: giữ vững độc lập chủ quyền, sống hoà mục với các nước, trước hết là các nước láng giềng, góp phần bảo vệ an ninh khu vực. Nhà sử học Phan Huy Chú đã nêu rõ sự quan tâm của các nhà lãnh đạo Đại Việt đối với quan hệ láng giềng: “Trong việc trị nước, hoà hiếu với nước láng giềng là việc lớn mà những khi ứng thù lại rất quan hệ không thể xem thường cho nên nghĩa tu hiếu (sửa việc giao hiếu), đạo giao lân (giao thiệp với nước láng giềng) chép ở hiền truyền (sách Mạnh Tử) chính là đem lòng thực mà kết giao, người có quyền trị nước phải nên cẩn thận”. Để duy trì mối quan hệ ngoại giao ấy thì vai trò của các sứ thần rất quan trọng. Sứ thần Đại Việt chính là cầu nối ngoại giao giữa Đại Việt với các nước.
1. Tìm hiểu về tiểu sử của một số sứ thần Việt Nam tiêu biểu
Theo bảng thống kê ta có: Ở thời Lý có 34 sứ thần, với 37 lượt đi. Ở thời Trần có 48 sứ thần với 48 lượt đi. Ở thời Lê có 296 người, với hơn 321 lượt đi. Như vậy có thể nói có những sứ thần không chỉ đi sứ một lần mà còn nhiều lần hơn nữa như: Lê Tái Nghiêm đi sứ 2 lần , Hà Lật nhà Lê đi sứ
3 lần, Hà Phủ đi sứ 3 lần, Đào Công Soạn đi 3 lần, Nguyễn Thiên Tích đi 3 lần, Đinh Lan 3 lần, thậm chí có những người đi sứ 5 lần như Nguyễn Đình Mỹ…
Có thể nói số lượng đi sứ có sự khác nhau giữa các sứ thần và giữa các triều đại. Chúng tôi tạm tin cậy vào những ghi chép trong bộ chính sử này trong khi chưa có đIều kiện đối sách với các nguồn sử liệu khác. Có những sứ thần có thể đi rất nhiều lần bởi lẽ họ là những người được vua rất tin cậy, đồng thời đã có nhiều kinh nghiệm đi sứ, có sức khoẻ tốt…Còn mức độ đi sứ của các triều đại có sự khác nhau nó phụ thuộc rất nhiều yếu tố: chính sách ngoại giao , điều kiện kinh tế và chính trị, thời gian tồn tại của các triều đại…nếu như ở triều đại nào có điều kiện kinh tế tốt thì triềuđại đó càng có điều kiện để quan tâm đến chính sách ngoại giao, đồng thời thời gian tồn tại của triều đại đó càng nhiều thì càng có khả năng thực hiện ngoại giao nhiều hơn.Ta có thể lấy ví dụ nhà Lê là một triều đại phát triển của xã hội phong kiến Việt Nam, có thời gian tồn tại lâu nên có điều kiện để thực hiện một chính sách ngoại giao tốt, vì vậy nên Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lai rất nhiều sứ thần ở thời kỳ này.
Có thể nói hầu hết ở triều đại Lý – Trần – Lê, những người được cử đi sứ đều là những người tin cậy của vua, là những người có chức tước, có học vấn. Đã có nhiều sứ thần được nhà sử học Phan Huy Chú ghi lại tiểu sử và ông đã phân chia như sau: Thời Lý - Trần – Lê đã có rất nhiều sứ thần là những người phò tá có công lao, tài đức như : Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Tông Mại, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Như Đổ, Quách Đình Bảo, Quách Hữu Nghiêm, Nguyễn Cư Đạo, Bùi Xương Trạch (nhà Trần), Phùng Khắc Khoan, Bùi Bỉnh Uyên, Ngô Trí Hoà, Nguyễn Danh Thế (nhà Lê),…
“Nguyễn Trung Ngạn: người làng Thổ-hoàng huyện Thiên Thi (Hưng Yên). Thời Anh - Tông năm Giáp Thìn (1304) ông đỗ hoàng giáp, bấy giờ 16 tuổi. Khi Minh Tông lên ngôi ông cùng Phạm Ngộ sang Nguyên báo tin và dâng cống. Năm Đại Khánh thứ 8(1321) ông làm chức thị ngự sử ở đài ngự sử. Sau trái ý vua ông bị đổi ra làm thông phán ở Châu Anh – làng. Năm thứ 3(1326) lại đổi làm an phủ sứ Thanh- hoa. Năm thứ 6 (1329) Hiến Tông lên ngôi, thượng hoàng đi đánh Ngưu-hống, ông đi theo hộ giá. Năm Khai Hựu thứ tư (1332) được phong nội phó sự viện Nội mật, được cất lên coi việc ở viện…Ông chết thọ hơn 80 tuổi”.1
Hay Nguyễn Cư Đạo:
“Ông người làng Đông Khôi, huyện Gia Định (Bắc Ninh) đỗ đồng tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3 (1422). Thời Lê Thái Tông buổi đầu ông làm ngự tiền học sinh. Năm Thái- Hoà Kỷ Tỵ (1449) được đổi làm giám sát ngự sử, rồi vì tâu việc các viên tham nghị ở viện chính sự, bị giáng làm trực giảng Quốc Tử Giám. Năm Diên- Minh Bính Tý (1456) ông sung phó xứ đi cống. Năm Đinh Hợi (1467) ông lại được thăng đô ngự sử, thượng thư bộ Hộ”2
Ngoài ra các sứ thần còn là những nhà Nho có đức nghiệp như: Trình Thanh, Nguyễn Bá Kỷ, Đặng Minh Khiêm, Trần Văn Bảo, Nguyễn Đăng,…
“Trình Thanh ông có tên tự là Trực Khanh, vốn là họ Hoàng, người làng Lương Xá huyện chương Đức (Hà Đông) làm nhà ở xã Trung Thanh Oai, về huyện Trung Oai. Năm 19 tuổi, ông đỗ khoa hoành từ năm Thuận Thiên thứ 4 (1431). Mới đầu được sung vào làm ngự tiền học sinh. Năm Thiệu Bình, Giáp Dần (1434) làm chính chưởng ở viện Nội mật, sung phó sứ sang Minh tạ ơn về việc vua được sắc phong. Mùa xuân Đinh Mão (1447) ông được thăng thị độc viện Hàn lâm, coi cục ngự tiền học sinh…”3.
Hay Nguyễn Bá Ký : “Người làng Vân Nội, huyện Chương Đức đỗ hoàng giáp khoa Mậu Thìn (1448) , năm Thái Hoà thứ 6 đời Nhân Tông. Lúc đầu ông làm tu chế cao viện Hàn lâm, trải lên trực học sĩ. Mùa đông Nhâm Thân (1425) làm phó sứ sang Minh mừng việc lập thái tử. Khi về thăng lên chức tả tư toà Trung thư, hầu giảng ở toà Kinh duyên, kiêm chức thượng ky đô uý, cai quản các cục cận thị chi hậu”1
Những sứ thần này còn là những bề tôi tiết nghĩa như: Nguyễn Biểu, Lê Tuấn Mậu, Đàm Thận Huy, Đỗ Nhân, Phạm Thịnh, Lê Hiếu Trung, Thiều Quy Linh,…
Như Lê Tuấn Mậu: “Người làng Xuân Lôi, huyện Yên Phong (Bắc Ninh) đỗ đồng tiến sĩ khoa Canh Tuất(1490), đời Hồng Đức. Năm Mậu Ngọ đời Cảnh Thống (1498) ông sang Minh, làm quan đến đô ngự sử”2
Từ những thế kỷ trước, trong giao tiếp với các quan lại Trung Quốc và các sứ thần nước khác, các sứ giả Đại việt đều được trọng nể về tài năng và học vấn . Như trạng nguyên Phùng Khắc Khoan làm thơ xướng hoạ với các sứ thần nước khác, đặc biệt với sứ thần Triều Tiên, lại làm ba mươi bài thơ mừng thọ vua Minh .
Như vậy thông qua tiểu sử của một số sứ thần, chúng ta thấy rằng, những người được cử đi làm sứ thần là những người thân cận của vua, là những người có tài, có học vấn, là những bề tôi tiết nghĩa, những nhà Nho có đức nghiệp, những người phò tá có công lao, có tài đức. Bởi lẽ đi sứ là một công việc vô cùng quan trọng, khó khăn và đôi khi hết sức nguy hiểm, chính vì vậy yêu cầu đặt ra là phải chọn những người hiền tài mới có thể đủ sức để đảm đương nhiệm vụ, làm cầu nối ngoại giao được. Các sứ giả Đại Việt không chỉ làm ngoại giao mà còn quảng bá học thuật và văn chương Việt Nam với người Trung Quốc và những người nước khác. Ngày nay những người hoạt động trong lĩnh vực chính trị ngoại giao cũng vậy: họ cũng đều là những người có tài năng, thông minh, nhanh nhậy, là những con người cầm cán cân cho sự hoà bình, phát triển của dân tộc.
2. Mục đích đi sứ của các sứ thần
Đối với mỗi một triều đại khi lên cầm quyền đều mong muốn duy trì mối quan hệ hoà hiếu với các nước. Đối với Đại Việt chủ yếu là mối quan hệ Đai Việt – Trung Quốc. Bên cạnh đó còn có mối quan hệ với các nước: Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp, Xiêm,…. Chính vì vậy mục đích chung của các triều đại khi cử các sứ thần đi sứ là duy trì mối quan hệ hoà hiếu giữa các nước.
Đối với Đại Việt và Trung Quốc là hai nước láng giềng núi liền núi sông liền sông, nhưng một bên là nước lớn luôn luôn thực hiện chính sách bành trướng với một bên là nước nhỏ phải thuần phục. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta luôn luôn phải thuần phục mà trong quan hệ ấy chúng ta luôn nhún nhường, nhưng luôn giữ vững độc lập tự chủ của mình. Khi chúng xâm phạm đến quyền độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của ta thì ta sẵn sàng đấu tranh: chính vì vậy trong lịch sử hai nước đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xung đột xảy ra (cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý, 3 lần kháng chiến chống Mông Nguyên thời Trần…) đây là nhân tố quyết định mối quan hệ hai mặt giữa hai nước.
Theo bản thống kê có : 8 lần sứ thần sang với mục đích kết hảo và thông hiếu ( nhà Lý 4 lần, nhà Trần 4 lần), 7 lần sang đáp lễ (nhà Lý 4 lần, nhà Trần 3 lần), 40 lần nhà Lê sang nộp cống, 11 lần sang xin sách phong, 21 lần sang tạ ơn, 10 lần sang chúc mừng ( 2 lần nhà Trần, 8 lần nhà Lê), 31 lần sang tâu việc, 16 lần sang với các mục đích khác. Có thể nói theo từng tình hình, từng hoàn cảnh cụ thể mà mục đích đi sứ cũng có sự khác nhau.
Trong trường hợp khi mà các triều đại của nước Đại Việt mới lên ngôi muốn duy trì mối quan hệ hoà bình với các triều đại Trung Quốc thì lúc đó sứ thần sang với mục đích kết hảo, nối lại sợi dây đã bị đứt.
Ví dụ như:” Năm Canh Tuất, Thuận Thiên năm thứ 1 (1010) Lý Công Uẩn sai viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống để kết hảo.”1
Hay cũng có thể có sứ thần sang với mục đích cầu phong và khi được sách phong thì các sứ thần có nhiệm vụ sang để tạ ơn. Đây là một mục đích cũng như là một việc làm rất quan trọng của các sứ thần. Bởi lẽ sách phong là một việc làm thường có ở nước Đại Việt, có nghĩa là một nước chư hầu phải được thiên tử phong tước cho mới được công nhận. Tước phong có thể là tước Vương, có thể là tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam….Được phong là biểu hiện sự phục tùng của chư hầu.
Ví dụ : “Đinh Tỵ (Thiệu Bình) năm thứ 4 (1437) Minh chính thống năm thứ 2. Tháng giêng ngày 13 nhà Minh sai chánh sứ là binh bộ thượng thư Lý Ức, phó sứ là Thông Chính mang chiếu sắc và ấn vàng sang phong vua làm An Nam quốc vương. Ngày 17 lấy Quản lĩnh quân Hùng tiệp là Thái Sĩ Minh làm chánh sứ, Đồng tri thẩm hình viện Hà Phủ và lĩnh viện đại phu Nguyễn Nhật Thăng làm phó sứ sang tạ ơn nhà Minh.”2
Một mục đích nữa khi đi sứ của các sứ thần là cống nạp. Bởi lẽ đối với một nước chư hầu nhỏ như Đại Việt thì triều cống chính là việc buộc phải làm với nước lớn như Trung Quốc. Triều cống chính là việc chư hầu dâng hiến vàng bạc, châu báu, sản vật quý cho thiên tử. Bên cạnh cống còn có sính. Sính nghĩa là thăm hỏi nhau, một hình thức cử sứ giả thăm viếng nhau nhưng cũng có quà tặng nhau, trong trường hợp hai nước thông hiếu và có quan hệ bang giao với nhau. Sính không định kỳ còn cống là dưới dâng hiến bề trên, cống mang tính chất bắt buộc và theo quy định của thiên triều và có kỳ hạn nhất định, có loại cống hàng năm, có loại cống 3 năm, 6 năm một lần.
Ví dụ :” Bính Tý (Diên Ninh) năm thứ 3 (1456) Minh Cảnh Thái năm thứ 7. Tháng 10, ngày 25 sai các bồi thần Lê Văn Lão, Nguyễn Đình Mỹ, Nguyễn Cư Đạo, Đặng Huệ Hạt sang nhà Minh nộp cống hàng năm và tạ ơn ban áo mũ.”1
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng mục đích chung của việc đi sứ là giữ mối quan hệ bang giao hoà hiếu, nhưng trong mục đích chung ấy nó được chia làm nhiều mục khác nhau: từ việc thông hiếu, thăm hỏi, thông báo chúc mừng hay đến việc tạ ơn, cầu phong, cống nạp,… Qua đó cho chúng ta thấy được sự đa dạng và tính phức tạp của mối quan hệ ngoại giao, nó đòi hỏi các triều đại phong kiến phải có những kế sách và biện pháp đúng đắn để duy trì mối quan hệ ấy.
3. Các lễ vật cống sính
Ta có thể thống kê như sau:
Năm
Các lễ vật
1014
100 con ngựa
1034
Con thú một sừng, 2 con voi thuần
1042
Voi thuần
1078
5 con voi thuần
1118
2 con tê giác trắng, đen và 3 con voi nhà
1122
Voi
1126
10 con voi thuần, vàng bạc, sừng tê, sừng bin
1161
Voi thuần
1386
Giống các cây rau, vải, mít, nhãn
1404
2 con voi đen và trắng
1427
Ngựa, đồ uống rượu bằng pha lê màu xanh trắng, 2 pho tượng người bằng vàng, 1 chiếc lư hương bạc, 1 đôi bình hoa bạc, 300 tấm lụa thổ, 14 đôi ngà voi, 20 lọ hương xông áo, 2 vạn nén hương, 24 khối trầm hương và tốc hương,…
1429
Vàng bạc và sản vật địa phương
1435
Phương vật
1488
Hương liệu
Một điều không thể thiếu được khi đi sứ của các sứ thần phong kiến đó là lễ sính. Lễ cống vật được quy định rõ ràng, còn sính không được quy định. Nó bao gồm vàng bạc, châu báu, sản vật quý hiếm cho thiên tử (tê giác, sừng hươu, ngà voi….), ngoài ra nó còn là những sản vật đặc trưng của địa phương như hạt giống rau, củ, quả…,
Ví dụ: “Mậu Tuất (Hội Tường Đại Khánh) năm thứ 9 (1118) Tống Trùng Hoà năm thứ 1. Mùa đông tháng 11, sai viên ngoại lang là Nguyễn Bá Độ và Lý Bảo Thần đem biếu nhà Tống 2 con tê giác trắng, đen, và 3 con voi nhà”1.
Hay: “Mùa đông, tháng 11, ngày 20 sai thâm hình viện phó sứ Nguyễn Văn Huyến và Ngự sử trung thừa Nguyễn Tông Chí đi theo bọn Xưởng sang nhà Minh tạ ơn và nộp 5 vạn lạng vàng tuế cống”22.
Theo sử sách ghi chép rằng Trung Quốc bắt ta cống tượng người nó liên quan tớ sự kiện ta giết Liễu Thăng nên bắt ta cống tượng để đền người.Đây là quy định bắt buộc mà nhà Lê phải theo, vì vậy năm 1427 trong lễ cống nạp có 2 pho tượng người.
Như vậy ta có thể nhận thấy rằng những lễ vật này có số lượng nhỏ mang tính chất tượng trưng cho mối quan hệ giữa hai nước, nó thể hiện sự tôn trọng của Đại Việt đối với các nước nhất là với Trung Quốc. Nó là lễ vật tượng trưng cho sự yêu chuộng hoà bình của nước ta.
4. Quan hệ ngoại giao Đại Việt thời Lý – Trần – Lê
Thông qua bản thống kê trên chúng ta cũng thấy được mối quan hệ ngoại giao của Đại Việt qua các thời đại. Đó là mối quan hệ vô cùng phức tạp, đa dạng, nó phụ thuộc và được quy định trong từng thời kì lịch sử. Nói ngoại giao của một quốc gia là nói quan hệ của nước đó đối với cộng đồng quốc gia xung quanh, và quan hệ đó xuất phát từ nhu cầu tạo môi trường quốc tế thuận lợi để đất nước sinh tồn và phát triển. Nước Đại Việt nằm trên bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp Ai Lao, phía Nam giáp Chiêm Thành và Chân Lạp. Ngoại giao của Đại Việt chủ yếu là với các nước láng giềng trong khu vực, nhất là với Trung Quốc..
Mối quan hệ ngoại giao của Đại Việt có sự góp công không nhỏ của các sứ thần. Các sứ giả Đại Việt là đại diện của quốc vương và Nhà nước Đại Việt, phải gánh vác nhiệm vụ ngoại giao nặng nề, quyết định sự suy tồn của các triều đại. Nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt là giữ được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đối với Trung Quốc, họ phải giữ được quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng khác trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Quan hệ Đại Việt – Trung Quốc không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà còn trong cả quan hệ buôn bán. Nhiều các sử thần của ta sang đó vừa có mục đích chính trị vừa để giao lưu buôn bán, học hỏi các nghề thủ công của họ. Đó là mối quan hệ giữa một nước lớn với một nước nhỏ, luôn luôn thi hành chính sách bành trướng, chính vì vậy trong mối quan hệ ấy chúng ta luôn phải nhún nhường nhung vẫn luôn giữ vững độc lập tự chủ của mình.Đường lối đó nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ. Đại Việt tôn trọng độc lập, chủ quyền, lãnh thổ của các nước nhưng đòi các nước khác cũng phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, lãnh thổ của mình. Khi đất nước mình bị xâm phạm thì nhân dân Đại Việt triệu người như một quyết chiến đấu bằng mọi phương tiện quân sự, chính trị, ngoại giao để bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ. Trong trường hợp xảy ra chiến tranh, sẵn sàng cùng đối phương thương lượng tìm cách giải quyết vấn đề nhưng không bao giờ xa rời lập trường nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền. Theo nguyên tắc đó, vận dụng chiến lược, chiến thuật linh hoạt, dân tộc Việt Nam đã đánh thắng tất cả các cuộc xâm lược của Tống, Nguyên, Minh, Thanh và sau mỗi cuộc chiến đấu đó đều giữ được độc lập chủ quyền, lãnh thổ của mình và hoà hiếu với nước láng giềng phương Bắc.
Thời Lý mối quan hệ Đại Việt-Trung Quốc không phức tạp cho lắm, do vậy mà số lượng sứ thần sang là không nhiều, Từ Thái Tổ đến Thái Tông, các vua đều được phong tước Vương (hoặc Nam Bình Vương, hoặc Nam Việt Vương). Còn đến thời Trần và thời Lê, thì quan hệ mới trở nên phức tạp hơn vì tình hình Trung Quốc phát triển cũng khá phức tạp. Bởi vậy nên có rất nhiều những cuộc xung đột xảy ra, dẫn tới nhiều cuộc xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc với nước Đại Việt như : Ba lần xâm lược của quân Nguyên, và sự xâm lược của nhà Minh. Nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng mức độ, cường độ đi xứ của các sứ thần thời Trần-Lê cũng tương đối nhiều đặc biệt là nhà Lê,. Điều này nó không chỉ là việc thể hiện sự phục tùng của nước nhỏ đối với một nước lớn mà nó còn thể hiện chính sách ngoại giao của các triều đại. Như thời Lê sơ, là thời kỳ phát triển của xã hội phong kiến Việt Nam, chính vì vậy có điều kiện hơn để thúc đẩy mối quan hệ bang giao giữa 2 nước nhằm duy trì sự hoà bình cho dân tộc.
Ngoài ra, Đại Việt thời Lý-Trần-Lê còn có quan hệ ngoại giao với nhiều nước khác: Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp, Xiêm. Đây là mối quan hệ hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đại Việt bao giờ cũng kiên trì ngoại giao hoà bình nhưng kiên quyết phản đối ngoại giao phục vụ chiến tranh xâm lược, sẵn sàng giáng trả những đòn đích đáng đối với kẻ xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Thế kỷ XV, để trả đũa việc vua Chiêm Thành Trà Toàn đem trăm nghìn quân đánh Hoá Châu, vua Lê Thánh Tông đem ba trăm nghìn quân đến kinh đô Chiêm Thành bắt sống vua Trà Toàn. Chính sách đối ngoại hoà bình của nước Đại Viẹt khác hẳn chính sách đối ngoại của các nước láng giềng thời bấy giờ. Các nước này dù lớn hay nhỏ đều có xu hướng bành trướng lãnh thổ, tranh giành ảnh hưởng. Chiêm Thành 3 lần đánh Giao Châu nứoc Đại Việt thông hiếu với Chiêm Thành thì vua Chiêm Thành đã bắt giữ các sứ giả đó và nhiều lần Chiêm Thành đánh ra Đại Việt….Như vậy ở vào một vị trí địa lý chính trị cực kỳ quan trọng và tế nhị, nước Đại Viẹt đòi hỏi giải quyết thoả đáng vấn đề nguyen tắc và vấn đề sách lược trong đường lối đối ngoại, trước hết là với đế chế Trung Hoa, nước láng giềng khổng lồ.
Như vậy mối quan hệ ngoại giao của Đại Việt là phức tạp, thăng trầm và đầy biến cố. Và trong mối quan hệ ngoại giao ấy, chúng ta luôn luôn phải đối mặt với âm mưu xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Đó là mối quan hệ 2 mặt, và chúng ta luôn luôn cố gắng giữ được mối quan hệ hoà hiếu giữa 2 nước. Với một nền ngoại giao có nguyên tắc đã đạt được nhiều thành công, thu được nhièu kinh nghiệm trong các thế kỷ trước là cơ sở vững chắc và truyền thống tốt đẹp cho nền ngoại giao hiện đại của nước Việt Nam.
KẾT LUẬN
Như vậy với bảng thống kê sứ thần Đại Việt qua