Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành chính cơ sở, là cấp gần dân nhất và là nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của các tầng lớp nhân dân.
Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp xã là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta, là cầu nối chuyển tải và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với quảng đại quần chúng nhân dân. UBND cấp xã thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội ở địa phương theo thẩm quyền; đảm bảo cho các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Hoạt động của UBND cấp xã có ảnh hưởng lớn tới tính hiệu quả của các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có ý nghĩa vô cùng to lớn với việc củng cố sự phát triển bền vững của xã hội, đảm bảo dân chủ và nâng cao đời sống nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cấp xã là cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”.[3, tr.371]
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã còn chưa được chuyên sâu, thiếu ổn định về nhân sự; tình trạng lãng phí, hình thức trong hoạt động quản lý vẫn phổ biến. Bên cạnh đó, trình độ quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn nhiều hạn chế, luôn rơi vào trạng thái lúng túng, ngỡ ngàng trước sự thay đổi và xu thế phát triển chung của thời đại, dẫn đến hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Khẳng định tầm quan trọng của Uỷ ban nhân dân cấp xã trong hệ thống chính trị ở nước ta. Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã đề ra phương hướng “đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn”. Nghị quyết chỉ đạo: “Cần nâng cao hiệu lực của cơ quan hành chính theo hướng đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính cấp xã” [7]. Gần đây, tại hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X đã ban hành Nghị quyết số 17- NQ/TW ngày 01/08/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước trong đó có UBND cấp xã. Đó là những cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp tục xây dựng chiến lược cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
57 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của khoá luận
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành chính cơ sở, là cấp gần dân nhất và là nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của các tầng lớp nhân dân.
Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp xã là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta, là cầu nối chuyển tải và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với quảng đại quần chúng nhân dân. UBND cấp xã thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội ở địa phương theo thẩm quyền; đảm bảo cho các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Hoạt động của UBND cấp xã có ảnh hưởng lớn tới tính hiệu quả của các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có ý nghĩa vô cùng to lớn với việc củng cố sự phát triển bền vững của xã hội, đảm bảo dân chủ và nâng cao đời sống nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cấp xã là cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”.[3, tr.371]
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã còn chưa được chuyên sâu, thiếu ổn định về nhân sự; tình trạng lãng phí, hình thức trong hoạt động quản lý vẫn phổ biến. Bên cạnh đó, trình độ quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn nhiều hạn chế, luôn rơi vào trạng thái lúng túng, ngỡ ngàng trước sự thay đổi và xu thế phát triển chung của thời đại, dẫn đến hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Khẳng định tầm quan trọng của Uỷ ban nhân dân cấp xã trong hệ thống chính trị ở nước ta. Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đã đề ra phương hướng “đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn”. Nghị quyết chỉ đạo: “Cần nâng cao hiệu lực của cơ quan hành chính theo hướng đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính cấp xã” [7]. Gần đây, tại hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X đã ban hành Nghị quyết số 17- NQ/TW ngày 01/08/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước trong đó có UBND cấp xã. Đó là những cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp tục xây dựng chiến lược cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của Uỷ ban nhân dân cấp xã trong hệ thống chính trị ở nước ta, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu qủa hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của khoá luận
Làm sáng tỏ các nội dung liên quan tới hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, những mặt tích cực và hạn chế trong hoạt động của UBND cấp xã và những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Khẳng định vị trí và vai trò hết sức quan trọng của UBND cấp xã trong hệ thống chính trị và dân cư. Từ đó, đưa ra được những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận
Hoạt động của UBND cấp xã rất rộng và đa dạng nên trong phạm vi của khoá luận tốt nghiệp, em chỉ tập trung nghiên cứu một số hoạt động đặc thù của UBND cấp xã có tác động trực tiếp đến người dân như: hoạt động hành chính- tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo; giải quyết tranh chấp đất đai…Và từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận
Khoá luận được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; xây dựng và đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương.
Để giải quyết những vấn đề cơ bản đã được đặt ra ở trên, em đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của Triết học Mác- LêNin và những phương pháp khác như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiển cứu của khoá luận.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề chung về UBND cấp xã.
Chương II: Hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Chương III: Nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1. Khái niệm về Uỷ ban nhân dân cấp xã
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Ủy ban nhân dân là cơ quan chính quyền nhân dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được lập ra ở các cấp xã, phường, thị trấn trực thuộc huyện; huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. [34, tr.759]
Theo từ điển luật học: “UBND là tên gọi của các cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”. [33, tr.538]
Điều 123 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: “UBND do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND)”.
Điều 2 Luật tổ chức của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy định: “UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, do HĐND bầu là cơ quan chấp hành của HĐND, chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Theo đó: UBND cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, do HĐND cấp xã bầu ra, chịu trách nhiệm trước HĐND cấp xã và cơ quan nhà nước cấp trên về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Như vậy, UBND cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có thẩm quyền chung, hoạt động với tư cách:
Cơ quan chấp hành của HĐND cùng cấp;
Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Là cơ quan chấp hành của HĐND cấp xã: UBND cấp xã chịu sự giám sát của HĐND cấp xã, chịu trách nhiệm và báo cáo các hoạt động của mình trước HĐND cấp xã.
Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương: UBND cấp xã có nhiệm vụ triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội và dân cư trên địa bàn.
UBND cấp xã chính là đầu mối giải quyết các công việc thường ngày của nhân dân và có quan hệ trực tiếp và gắn bó mật thiết với nhân dân, là cầu nối để chuyển tải mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Vì vậy mà hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã có ảnh hưởng rất lớn tới sự thành công của các chủ trương, chính sách được hoạch định từ cấp trên và quyền, lợi ích của nhân dân trên địa bàn.
Chúng ta đã chuyển sang cơ chế quản lý mới trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của UBND cấp xã càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã
Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Pháp lệnh về nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND mỗi cấp năm 1996 thì nhiệm vụ, quyền hạn của UBND xã, thị trấn và UBND phường là khác nhau. Sự khác nhau đó là do:
- Sự chênh lệch về quy mô dân số và diện tích ở xã, thị trấn và phường: Cho đến nay, khu vực nông thôn ở nước ta vẫn chiếm khoảng trên 80% dân số và diện tích cả nước trong khi đó con số này của khu vực đô thị là khoảng gần 20% dân số và diện tích cả nước. Mật độ dân số ở nông thôn không đồng đều, các làng xã ở vùng đồng bằng thường đông đúc nhưng ngược lại ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa thì dân cư lại thưa thớt mà đất đai lại rộng. Dân cư ở nông thôn đơn giản, thuần nhất, gắn bó với nhau từ lâu đời, có tính truyền thống và huyết thống cao tạo nên những bản sắc và phong tục tập quán riêng, cuộc sống chủ yếu mang tính chất tự cấp, tự túc.
Ở địa hình thành phố, mật độ dân số cao, thành phần dân cư phức tạp, không thuần nhất, có nguồn gốc, lối sống và tập quán khác nhau. Lối sống của dân cư phường phần lớn phụ thuộc vào thị trường và chủ yếu thông qua phương thức mua bán; sự liên kết dân cư rất lỏng lẻo.
- Về phương diện cơ cấu kinh tế: Ở nông thôn, kinh tế chủ đạo là kinh tế nông nghiệp. Ở đô thị, kinh tế chủ đạo là kinh tế công nghiệp, dịch vụ, thương mại.
- Về chức năng: UBND xã, thị trấn bên cạnh chức năng là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương còn là cơ quan tự quản ở xã, đại diện cho cộng đồng dân cư ở cơ sở, giải quyết những vấn đề nội bộ của địa phương.
Trong khi đó UBND phường chỉ thuần tuý là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, thực hiện một số công việc quản lý hành chính nhà nước theo quy định của pháp luật và một số nhiệm vụ do cấp trên giao.
Chính các điểm khác nhau nêu trên mà pháp luật đã quy định cho UBND xã, thị trấn các nhiệm vụ và quyền hạn khác với UBND phường. Cụ thể như sau:
2.1. Nhiệm vụ quyền hạn của UBND xã, thị trấn
* Trong lĩnh vực kinh tế:
- Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện kế hoạch đó;
- Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; tổ chức thực hiện ngân sách địa phương và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;
- Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu cầu công ích ở địa phương;
- Phối hợp với các cơ quan hữu quan thu thuế ở địa phương theo quy định của pháp luật;
- Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong việc đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn;
* Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và tiểu thủ công nghiệp:
- Tổ chức và hướng dẫn việc thực hiện các chương trình, đề án ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất.
- Tổ chức việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc tu bổ, bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt;
- Quản lý, kiểm tra, bảo vệ việc sử dụng nguồn nước trên địa bàn;
- Tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành, nghề truyền thống ở địa phương;
- Lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của xã;
* Trong lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải :
- Quản lý, kiểm tra việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ ở điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức việc bảo vệ, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm đường giao thông và các công trình cơ sở hạ tầng khác ở địa phương;
- Huy động sự đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng đường xá, cầu, cống trên địa bàn; tổ chức thực hiện việc xây dựng, tu sửa đường giao thông trong xã theo phân cấp;
* Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ:
- Quản lý, sắp xếp chợ và các điểm buôn bán dịch vụ ở địa phương;
- Quản lý các hoạt động dịch vụ, buôn bán nhỏ ở địa phương theo quy định của pháp luật;
- Phối hợp với các cơ quan hữu quan chống buôn lậu, trốn thuế, sản xuất và lưu hành hàng giả ở địa phương;
* Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội và thể dục thể thao :
- Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục ở địa phương;
- Tổ chức xây dựng và quản lý, kiểm tra hoạt động của nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trường mầm non ở địa phương;
- Tổ chức và quản lý trạm y tế xã, tổ chức, thực hiện các chương trình y tế cơ sở, dân số, kế hoạch hoá gia đình được giao;
- Tổ chức thực hiện chính sách, chế độ đối với thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước; thực hiện công tác cứu tế xã hội, hoạt động từ thiện ở địa phương;
- Quản lý, bảo vệ, tu bổ nghĩa trang liệt sĩ, quy hoạch quản lý nghĩa địa ở địa phương;
- Xây dựng phong trào và tổ chức các hoạt động văn thể; vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá…
* Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội:
- Tổ chức huấn luyện quân sự phổ thông; tuyên truyền, giáo dục xây dựng quốc phòng toàn dân;
- Thực hiện công tác nghĩa vụ quân sự và tuyển quân theo kế hoạch; thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ; thực hiện chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương;
- Thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Quản lý hộ khẩu; tổ chức việc đăng ký tạm trú, tạm vắng;
* Trong lĩnh vực thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo :
- Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có nhiệm vụ tổ chức, hướng dẫn và bảo đảm thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
* Trong lĩnh vực thi hành pháp luật :
- Tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản do chính UBND cấp xã, cơ quan nhà nước cấp trên và HĐND cùng cấp ban hành;
- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật; giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân;
- Tổ chức và hướng dẫn hoạt động của các tổ hoà giải, thanh tra nhân dân;
- Tổ chức việc đăng ký hộ tịch, thực hiện công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân theo thẩm quyền;
- Thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản của Nhà nước; bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
- Tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc thi hành án theo quy định của pháp luật; kiểm tra việc thi hành pháp luật trên địa bàn;
- Quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
* Trong việc xây dựng chính quyền và quản lý địa giới hành chính:
- Tổ chức và thực hiện công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật;
- Lập hồ sơ về việc phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính; quản lý hồ sơ, mốc và bản đồ địa giới hành chính của địa phương. [12],[17]
2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND phường
Do UBND xã, thị trấn và UBND phường đều thuộc một cấp hành chính (cấp xã) nên cũng có những điểm tương đồng. Vì vậy, Uỷ ban nhân dân phường, ngoài việc phải thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật đã quy định cho UBND xã, thị trấn như đã nói ở trên còn có trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: (Điều 118- Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003)
- Thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, phòng, chống các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự vệ sinh, sạch đẹp khu phố, lòng đường, lề đường, trật tự công cộng và cảnh quan đô thị; quản lý dân cư đô thị trên địa bàn;
- Thanh tra việc sử dụng đất đai của tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường theo quy định của pháp luật;
- Quản lý và bảo vệ cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn phường theo phân cấp
- Quản lý, kiểm tra giấy phép xây dựng của tổ chức, cá nhân trên địa bàn phường; [12]
Căn cứ vào các nhiệm vụ, quyền hạn mà UBND cấp xã phải thực hiện, chúng ta thấy UBND cấp xã vừa phải thực hiện những nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước được Nhà nước phân cấp hoặc uỷ quyền vừa phải tổ chức thực hiện các Nghị quyết của HĐND cấp xã về phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân trên địa bàn.
3. Cơ cấu, tổ chức, hoạt động của UBND cấp xã
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, UBND cấp xã cần phải có một cơ cấu, tổ chức, hoạt động khoa học và hợp lý, phát huy vai trò là nền móng của Bộ máy hành chính nhà nước.
3.1. Cơ cấu của UBND cấp xã
Điều 122 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: UBND cấp xã do HĐND xã bầu ra, có từ 03 đến 05 thành viên, gồm có Chủ tịch, Phó chủ tịch và Uỷ viên.
Người đứng đầu UBND cấp xã là Chủ tịch UBND do HĐND cấp xã trực tiếp bầu ra. Chủ tịch UBND cấp xã nhất thiết phải là đại biểu HĐND cấp xã, còn các thành viên khác của UBND cấp xã thì không nhất thiết phải là đại biểu HĐND. Kết quả bầu các thành viên của UBND cấp xã phải được Chủ tịch UBND cấp huyện phê chuẩn.
Trong nhiệm kì, nếu khuyết Chủ tịch UBND cấp xã thì Chủ tịch HĐND cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch UBND để HĐND bầu. Người được bầu giữ chức Chủ tịch UBND cấp xã trong nhiệm kì không nhất thiết là đại biểu HĐND. Quy định này nhằm tạo ra cơ chế linh hoạt và đảm bảo tính hiệu quả trong việc thực hiện chức năng quản lý và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước, khắc phục tình trang cục bộ địa phương. Điều này có mục đích tốt, tuy nhiên có thể sẽ gặp phải khó khăn về mặt tâm lý, người dân địa phương có thể cho rằng người địa phương khác đến không thể hiểu được tình hình của đời sống dân cư tại địa phương mình. Đây chính là một trong những vấn đề của cải cách bộ máy nhà nước.
Phó chủ tịch UBND cấp xã do HĐND cùng cấp bầu ra theo sự giới thiệu của chủ tịch UBND bằng hình thức bỏ phiếu kín.
Các thành viên của UBND cấp xã cũng do HĐND cùng cấp bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín, theo sự giới thiệu của chủ tịch UBND.
Tuỳ theo quy mô số dân ở các xã, phường, thị trấn mà có cơ cấu tổ chức khác nhau. Cụ thể:
* Ở các xã miền núi, hải đảo, có dân số từ 5000 người trở lên; xã đồng bằng, trung du có dân số từ 8000 người trở lên và xã biên giới:
Cơ cấu tổ chức của UBND gồm 05 thành viên và được phân công như sau:
Một chủ tịch phụ trách chung, khối nội chính, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở xã.
Hai phó chủ tịch: Một phó chủ tịch phụ trách khố kinh tế, tài chính, xây dựng, giao thông, nhà đất và tài nguyên môi trường. Một phó chủ tịch phụ trách khối văn hoá- xã hội và các lĩnh vực xã hội khác
Các uỷ viên UBND: Một uỷ viên phụ trách công an. Một uỷ viên phụ trách quân sự.
* Ở các xã không thuộc diện nêu trên:
Cơ cấu tổ chức của UBND gồm 03 thành viên: Một chủ tịch, một phó chủ tịch và một uỷ viên. Căn cứ vào lĩnh vực công việc được phân công theo quy định của pháp luật mà Chủ tịch UBND xã phân công các thành viên phụ trách cho phù hợp với từng địa phương. Trong nhiệm kỳ, HĐND xã có thể ấn định thêm số lượng thành viên UBND cấp mình nhưng tổng số không vượt quá 05 thành viên và phải được Chủ tịch UBND cấp huyện phê chuẩn.
* Đối với UBND phường, thị trấn:
Cơ cấu tổ chức gồm 05 thành viên: Một chủ tịch, hai phó chủ tịch, hai uỷ viên và được phân công phụ trách công việc như sau:
Một chủ tịch phụ trách chung, khối nội chính, quản lý công tác quy hoạch đô thị.
Hai phó chủ tịch: Một phó chủ tịch phú trách khối kinh tế- tài chính xây dựng cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, nhà đất và tài nguyên môi trường. Một phó chủ tịch phụ trách khối văn hoá xã hội và các lĩnh vực xã hội khác.
Hai uỷ viên: Một uỷ viên phụ trách công an. Một uỷ viên phụ trách quân sự. [32, tr.45- 47]
3.2. Tổ chức của UBND cấp xã
UBND cấp xã tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong đó:
Chủ tịch UBND cấp xã là người lãnh đạo và điều hành công việc của UBND, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình và cùng với tập thể UBND chịu trách nhiệm về hoạt động của UBND trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
Phó chủ tịch UBND cấp xã là người giúp việc cho Chủ tịch UBND cấp xã, được Chủ tịch phân công phụ trách, thực hiện những công việc nhất định và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND cấp xã về phần công việc được giao.
Các thành viên của UBND cấp xã được Chủ tịch UBND phân công, phụ trách những lĩnh vực chuyên môn nhất định. Đặc biệt với những lĩnh vực quan trọng như: tài chính, công an, quân sự…Chủ tịch UBND cấp xã phải phân công cho các thành viên UBND phụ trách, làm thủ trưởng. Mỗi thành viên của UBND cấp xã chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực được phân công phụ trách trước Chủ tịch UBND cấp xã.
3.3. Hoạt động của UBND cấp xã
Theo Điều 8 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, hoạt động của UBND cấp xã được đảm bảo bằng hiệu quả hoạt động của:
- Tập thể Uỷ ban nhân dân;
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
- Các thành viên của UBND và các cơ quan chuyên môn của UBND.
UBND cấp xã họp mỗi tháng một lần. Đây là hình