Đề tài Một số vấn đề pháp lý về hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam

Theo đánh giá của các chuyên gia, phương thức kinh doanh thông qua mô hình nhượng quyền thương mại (NQTM) là một cơ hội kinh doanh mới cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những doanh nghiệp có tham vọng song chưa đủ sức tấn công vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, Châu Âu. Mô hình NQTM sẽ giúp họ xâm nhập một cách gián tiếp vào các thị trường này với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, trở ngại đối với các doanh nghiệp này chính là từ trước tới nay, do mô hình NQTM không xuất hiện nhiều tại Việt Nam, nên phần lớn là các doanh nghiệp sẽ phải tự mò mẫm học hỏi và vì vậy, họ rất dễ trở thành nạn nhân của mặt trái của mô hình này như bị “nhái” nhãn hiệu, hoặc để bảo vệ quyền sở hữu đối với các bí mật kinh doanh của mình mà có những quy định trong hợp đồng NQTM vi phạm PLCT của các quốc gia khác mà doanh nghiệp có hoạt động nhượng quyền. Chính vì thế mà ngoài việc quan tâm đến phẩm chất đạo đức của các đối tượng mà mình trao quyền, các doanh nghiệp cần rất thận trọng trong khâu làm hợp đồng để tránh những sai phạm không đáng có, tránh “tầm” điều chỉnh của PLCT của các quốc gia này. Với mong muốn tìm hiểu hành lang pháp lý cho hoạt động NQTM, mà đặc biệt là các quy định pháp luật về NQTM nhưng có liên quan đến các lĩnh vực luật khác, trong đó bao gồm Luật cạnh tranh, em đã quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Ngoài lời nói đầu, kết luận, khoá luận gồm có 3 chương: Chương 1: Khái quát về hoạt động NQTM và pháp luật về NQTM. Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM dưới góc độ PLCT. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về NQTM dưới góc độ PLCT.

doc65 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề pháp lý về hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Theo đánh giá của các chuyên gia, phương thức kinh doanh thông qua mô hình nhượng quyền thương mại (NQTM) là một cơ hội kinh doanh mới cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là những doanh nghiệp có tham vọng song chưa đủ sức tấn công vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, Châu Âu. Mô hình NQTM sẽ giúp họ xâm nhập một cách gián tiếp vào các thị trường này với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, trở ngại đối với các doanh nghiệp này chính là từ trước tới nay, do mô hình NQTM không xuất hiện nhiều tại Việt Nam, nên phần lớn là các doanh nghiệp sẽ phải tự mò mẫm học hỏi và vì vậy, họ rất dễ trở thành nạn nhân của mặt trái của mô hình này như bị “nhái” nhãn hiệu, hoặc để bảo vệ quyền sở hữu đối với các bí mật kinh doanh của mình mà có những quy định trong hợp đồng NQTM vi phạm PLCT của các quốc gia khác mà doanh nghiệp có hoạt động nhượng quyền. Chính vì thế mà ngoài việc quan tâm đến phẩm chất đạo đức của các đối tượng mà mình trao quyền, các doanh nghiệp cần rất thận trọng trong khâu làm hợp đồng để tránh những sai phạm không đáng có, tránh “tầm” điều chỉnh của PLCT của các quốc gia này. Với mong muốn tìm hiểu hành lang pháp lý cho hoạt động NQTM, mà đặc biệt là các quy định pháp luật về NQTM nhưng có liên quan đến các lĩnh vực luật khác, trong đó bao gồm Luật cạnh tranh, em đã quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Ngoài lời nói đầu, kết luận, khoá luận gồm có 3 chương: Chương 1: Khái quát về hoạt động NQTM và pháp luật về NQTM. Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM dưới góc độ PLCT. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về NQTM dưới góc độ PLCT. CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NQTM VÀ PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 1. Khái quát chung về hoạt động nhượng quyền thương mại 1.1. Khái lược về lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới Trong những năm qua NQTM (Franchise) đã phát triển rất mạnh mẽ trên thế giới, nhưng đối với Việt Nam thì đây vẫn là một khái niệm còn nhiều xa lạ. Đi tìm nguồn gốc của hoạt động này có nhiều ý kiến khác nhau trong đó quan điểm cho rằng hoạt động NQTM bắt đầu xuất hiện từ nước Mỹ vào khoảng những năm 1850 có lẽ là phổ biến hơn cả [11]. Sự phát triển của NQTM tăng tốc trong những năm 30 của thế kỷ XX, khi bắt đầu tiến hành nhượng quyền các loại hình khách sạn bên đường quốc lộ dành cho khách đi ôtô. Những năm 50 của thế kỷ XX chứng kiến sự bùng nổ của hệ thống nhượng quyền cùng với sự phát triển của hệ thống đường cao tốc nối liền các tiểu bang của Hoa Kỳ. Hệ thống các nhà hàng ăn nhanh, quán ăn rẻ tiền và khách sạn bên đường quốc lộ đua nhau mọc lên. Năm 2000, NQTM chiếm khoảng 40% doanh thu bán lẻ của Hoa Kỳ [32]. Chỉ đến những năm 1980 hoạt động NQTM sau đó mới lan rộng và diễn ra một cách mạnh mẽ ở các nước khác [11], sở dĩ là vì lúc này các nước mới phát hiện được tiềm năng đem lại lợi nhuận cao của lĩnh vực này. Sự phát triển ồ ạt của NQTM đã dẫn tới sự ra đời của Hiệp hội Nhượng quyền quốc tế IFA (International Franchise Association) vào năm 1960, Ủy ban Franchise thế giới (World Franchise Council – WFC) năm 1994. Sự ra đời của IFA, WFC đã tạo điều kiện cho việc phát triển NQTM dần trở thành hệ thống và ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn. Bởi vậy mà hiện nay kinh doanh theo phương thức NQTM đã có mặt tại hầu hết các châu lục, trong rất nhiều ngành nghề. Theo số liệu của phòng thương mại Mỹ thì từ năm 1974 đến năm 2005 trung bình chỉ có 5% số doanh nghiệp hình thành theo mô hình nhượng quyền kinh doanh tại Mỹ là thất bại, trong khi con số này là 30-65% cho các doanh nghiệp không theo mô hình nhượng quyền. Sự phát triển của hình thức kinh doanh này còn thể hiện ở ngay việc trong năm 2005 có tới 12/52 tiểu bang của Mỹ đều có luật bắt buộc bất kỳ công ty nào muốn tham gia vào thị trường chứng khoán đều phải có đăng ký nhượng quyền. Những cái tên không hề xa lạ như California, New York, Washington,…là một trong số đó [12]. Hiện tại hoạt động NQTM diễn ra phổ biến tại Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và đang có phần gia tăng ở các nước đang phát triển [4]. Ở Việt Nam, cà phê Trung Nguyên, Phở 24, bánh ngọt Kinh Đô, hãng thời trang Foci (công ty dệt may Nguyên Tâm), Công ty cổ phần kiến trúc xây dựng Nhà Vui,… là những ví dụ về các doanh nghiệp thực hiện hoạt động NQTM [14]. Tính đến thời điểm năm 2004, Việt Nam có khoảng 70 thương hiệu áp dụng NQTM, với tốc độ tăng trưởng ước tính 15% - 20% / năm [42]. Tại Mỹ, lúc đầu NQTM được coi là những thoả thuận giữa các nhà sản xuất, những tổ chức dịch vụ với những nhà kinh doanh độc lập khác liên quan đến việc phân phối sản phẩm – chính là hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm sau này. Trong hình thức này BNhQ chỉ được sử dụng nhãn hàng hoá của BNQ. Ví dụ cho trường hợp này là Coca-Cola, hãng này đã thực hiện bán Franchising lần đầu tiên cho nhà máy sản xuất vỏ chai là Georgia vào năm 1901. Phân phối theo hình thức này, Coca-Cola đã giảm được đáng kể chi phí vận tải, bởi thay vì vận chuyển nguyên cả chai, giờ đây Coca-Cola chỉ việc vận chuyển nước ngọt trong các thùng lớn, khâu đóng chai sẽ được thực hiện ngay tại cơ sở sản xuất vỏ chai, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Coca-Cola. Việc này có thể đảm bảo Coca-Cola không phải tiết lộ bí quyết kinh doanh của mình, bởi nhượng quyền theo hình thức này Coca-Cola vẫn sẽ là nhà sản xuất, sản phẩm sau đó được vận chuyển trong các thùng lớn đi các nơi, đến nơi nó sẽ được đóng vào các chai nhỏ. Sau một thời gian tồn tại, NQTM tại Mỹ phát triển thêm một hình thái mới đó là NQTM đối với phương thức kinh doanh. Ở hình thức này, BNQ kèm theo việc chia sẻ quyền kinh doanh nhãn hiệu, sẽ phải chia sẻ thêm cách thức kinh doanh thông qua việc thiết lập tài liệu hướng dẫn, đào tạo kỹ thuật, nhân viên, hỗ trợ việc chọn mặt bằng,…Chính vì việc chia sẻ quá nhiều điều cho BNhQ mà BNQ phải kiểm soát rất chặt chẽ hoạt động của BNhQ để bảo đảm được uy tín, sự tồn tại của cả hệ thống kinh doanh. Hình thức nhượng quyền này hiện nay là phổ biến, có thể tìm thấy rất nhiều ví dụ như McDonald’s, KFC,… Như vậy ở Mỹ, NQTM có thể diễn ra dưới hai hình thức: (i) NQTM trọn gói hay NQTM cả một hình thức kinh doanh và (ii) NQTM sản phẩm. Còn ở Châu Âu, trong án lệ Propuptia, toà án tư pháp Châu Âu (ECJ) đã phân biệt ba hình thức NQTM, đó là NQTM dịch vụ, NQTM sản xuất và NQTM phân phối [33]. 1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại 1.2.1. Khái niệm nhượng quyền thương mại Franchise có nguồn gốc từ tiếng Pháp cổ là “Franc” có nghĩa là đặc quyền hay tự do [12]. Ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của NQTM thì nhiều định nghĩa cũng được đưa ra. Nhưng do sự khác nhau về chế độ kinh tế, chính trị cũng như xã hội của mỗi một quốc gia mà mỗi định nghĩa được đưa ra lại có khía cạnh đặc trưng riêng. Theo thông lệ quốc tế, NQTM được coi là một hoạt động thương mại, trong đó BNQ (franchisor) sẽ chuyển mô hình kinh doanh, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo cho BNhQ (franchisee). BNhQ sau khi ký hợp đồng nhượng quyền được phép khai thác kinh doanh trên một không gian địa lý nhất định và phải trả một khoản phí nhượng quyền và tỷ lệ phần trăm doanh thu định kỳ cho BNQ trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là một hình thức để BNQ khai thác được lợi ích tài chính từ chính bí quyết kinh doanh của mình mà không phải đầu tư thêm vốn. Ngoài ra, hình thức này cũng tạo cơ hội cho các thương nhân không có đủ kinh nghiệm cần thiết để tiếp cận được với các phương thức kinh doanh mà đúng ra họ phải nỗ lực vượt bậc mới có được, và cũng tạo cơ hội cho họ được hưởng lợi từ chính tên thương mại, uy tín của BNQ. Theo quan điểm của pháp luật Hoa Kỳ và các nước công nghiệp phát triển thì hoạt động franchising thực chất là hoạt động chuyển giao quyền kinh doanh (quyền thương mại) gắn liền với quyền SHTT, bao gồm cả quảng cáo, tiêu chuẩn hàng hoá, đào tạo người lao động, khuyến mại v.v… Việt Nam là một nước tiếp cận với hoạt động NQTM được coi là muộn, nên trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước kết hợp với tình hình thực tế của hoạt động này ở Việt Nam, lần đầu tiên Luật thương mại 2005 đã đưa ra định nghĩa về NQTM tại Điều 284 và có quy định cụ thể về NQTM tại Mục 8 Chương VI từ các điều 284 đến điều 291. Tuy nhiên, thực ra NQTM đã xuất hiện tại Việt Nam từ đầu thập niên 90 và thuật ngữ này lần đầu được đề cập đến trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua khái niệm “cấp phép đặc quyền kinh doanh” tại Thông tư số 1254/1999 của Bộ KHCN&MT. Tại Nghị định số 11/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ (sửa đổi) quy định chi tiết thi hành Chương III Phần VI Bộ luật Dân sự 1995 chính thức thừa nhận hoạt động “cấp phép đặc quyền kinh doanh”- một dạng hoạt động NQTM, là một trong những hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Điều 4 Khoản 6 Nghị định số 11/2005, “cấp phép đặc quyền kinh doanh” là hoạt động theo đó: “ bên nhận sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết của bên giao để tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ thương mại”. Còn theo Luật thương mại 2005, NQTM được quy định “NQTM là hoạt động thương mại, theo đó Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ …” (Điều 284) theo cách thức và phương pháp kinh doanh mà BNQ quy định. Hoạt động thương mại này phải được làm thành văn bản và phải đăng ký với Bộ thương mại hoặc các Sở thương mại theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 35/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động NQTM. Thực chất NQTM chính là hoạt động thương mại của các thương nhân nhằm mở rộng quy mô kinh doanh của mình thông qua việc chia sẻ quyền phân phối sản phẩm hoặc chia sẻ quyền sử dụng công thức kinh doanh trên một thương hiệu của mình cho một hoặc nhiều thương nhân khác. Chính nhờ cách thức này mà Ray Kroc đã thiết lập nên một hệ thống cửa hàng thức ăn nhanh Mc Donald’s trên toàn thế giới như hiện nay, đem lại thành công mà nhiều công ty khác mong chờ, tuy không thể nói rằng lợi nhuận của tập đoàn này chủ yếu là do kinh doanh thức ăn nhanh. Có thể coi McDonald’s là trường hợp kinh điển trong lịch sử nhượng quyền kinh doanh của mọi thời đại. 1.2.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại Dù hoạt động NQTM có phát triển như thế nào thì về bản chất, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều công nhận NQTM không phải là “việc kinh doanh” cụ thể nào đó mà là một phương thức kinh doanh [18]. Đó chính là phương thức hợp tác giữa ít nhất là hai bên chủ thể: chủ sở hữu các quyền SHTT (như nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, tên thương mại, biển hiệu hay các biểu tượng quảng cáo,…) với một hoặc nhiều doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh khác trong việc cùng khai thác giá trị thương mại của các đối tượng NQTM của BNQ. Đổi lại, BNQ sẽ nhận được các khoản phí do BNhQ trả. Dựa vào bản chất đã phân tích, có thể thấy hoạt động NQTM có một số đặc điểm sau: - Về mặt chủ thể, hoạt động này bao gồm BNQ và BNhQ. Trong đó BNQ bắt buộc phải là thương nhân có một hệ thống và cơ sở kinh doanh đang có lợi thế cạnh tranh trên thị trường. BNhQ là một doanh nghiệp độc lập về mặt tài chính, pháp lý và đầu tư, đồng thời chấp nhận rủi ro đối với nguồn vốn bỏ ra khi thực hiện việc tham gia vào hệ thống nhượng quyền của BNQ. Điều này nghĩa là các bên của hợp đồng NQTM là các thương nhân có quyền kinh doanh độc lập. Sự độc lập này thể hiện ở chỗ: BNhQ khai thác hệ thống NQTM vì lợi ích của chính mình, và BNhQ được tự do thực hiện các hoạt động khác, ngoài hợp đồng NQTM. Đặc điểm độc lập này là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt giữa quan hệ NQTM với quan hệ chi nhánh. - Về tính đồng bộ, thống nhất. NQTM là sự phát triển đồng bộ một thương hiệu tạo ra sự thống nhất một hình ảnh các cửa hàng, để khách hàng vào bất cứ cơ sở, cửa hàng nào trong hệ thống cũng đều cảm thấy thoải mái, hài lòng như nhau. Hệ thống nhượng quyền như một guồng máy mà mỗi cửa hàng, cơ sở là một mắt xích, để tạo nên chính thể đó. Sự thay đổi của một mắt xích tất yếu làm ảnh hưởng tới cả hệ thống. Đây là điểm nhạy cảm của NQTM, bởi nó có thể giúp phát triển danh tiếng của hàng hoá, hệ thống nhượng quyền một cách nhanh chóng nhưng cũng có thế làm cho uy tín xây dựng trong một thời gian dài của sản phẩm/dịch vụ nhượng quyền đó sụp đổ. - Về mặt nội dung của khái niệm “quyền thương mại”. Nội dung của khái niệm này tuỳ thuộc vào từng loại hình NQTM và sự thoả thuận của các bên mà “rộng, hẹp” khác nhau. Đây là một khái niệm trừu tượng, có mối liên hệ đặc biệt đối với các đối tượng của SHTT. Theo cách hiểu NQTM là nhượng quyền phương thức kinh doanh thì quyền thương mại không chỉ dừng ở việc sử dụng tên thương mại, kiểu dáng thiết kế của hàng hoá mà còn mở rộng không ngừng bao gồm nhiều quyền năng khác trong hoạt động kinh doanh [18]. Cũng như các quan hệ khác, NQTM càng phát triển mở rộng thì khả năng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, tranh chấp càng cao. Sở dĩ như vậy là do, bản thân “quyền thương mại” đã liên quan đến lợi ích thiết thân của một nhà kinh doanh. Việc nhượng lại quyền thiết thân này cho một chủ thể kinh doanh khác để cùng kinh doanh, cùng chia sẻ những lợi thế mà quyền kinh doanh đem lại, vì thế, chắc chắn sẽ gây ra không ít tranh chấp.Vì đặc điểm này mà hoạt động NQTM phải được pháp luật điều chỉnh . - Về tính gắn kết của các bên trong hợp đồng NQTM. NQTM luôn tồn tại mối quan hệ mật thiết giữa BNQ và BNhQ. Trong NQTM sự gắn bó của BNhQ và BNQ là vô cùng chặt chẽ. Bởi NQTM về bản chất là sự nhân rộng một mô hình kinh doanh đã thành công, BNhQ được BNQ chia sẻ các công thức kinh doanh, các bí quyết kinh doanh, phương thức kinh doanh của BNQ nhằm tạo ra sự đồng bộ ở tất cả các cửa hàng nhượng quyền so với cửa hàng chính của BNQ. Vì thế BNQ và BNhQ phải tạo ra một mối quan hệ liên tục, thông suốt trong toàn bộ thời gian của hợp đồng NQTM. BNQ phải hướng dẫn, giúp đỡ kĩ thuật, đào tạo những nhân viên chủ lực cho BNhQ, đồng thời BNhQ không thể tự mình sáng tạo thêm các ý tưởng mới trong kinh doanh- nhất là các ý tưởng có khả năng phá vỡ sự đồng nhất trong hệ thống NQTM. 1.3. Đánh giá về mô hình kinh doanh theo phương thức NQTM Franchise với những đặc điểm của nó chứng tỏ nó không chỉ là phương thức kinh doanh hốt bạc, đảm bảo khả năng thành công của các bên tham gia một hệ thống NQTM bất kỳ, mà còn là cách thức kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì thế, đánh giá được cả ưu và nhược điểm của phương thức kinh doanh NQTM sẽ giúp cho các chủ thể của hoạt động này có cái nhìn khách quan, chính xác hơn về hoạt động này để có thể khai thác hết những mặt mạnh, đồng thời hạn chế được phần nào những khiếm khuyết của phương thức này. 1.3.1. Đối với BNQ * Ưu điểm của việc nhượng quyền NQTM đem lại nhiều lợi ích cho nhà nhượng quyền, trong đó có thể kể đến một số lợi ích rõ ràng nhất sau: - Ưu điểm lớn nhất mà franchising mang lại là hệ thống kinh doanh của BNQ được mở rộng mà hầu như không phải bỏ thêm vốn. Kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thì bên giao quyền không cần phải tiêu tốn quá nhiều vốn đầu tư mà cũng có thể nhanh chóng mở rộng hệ thống kinh doanh, thiết lập một mạng lưới kinh doanh rộng lớn trên toàn quốc và thậm chí trên toàn thế giới thông qua việc sử dụng vốn đầu tư của BNhQ. Số cơ sở kinh doanh bán lẻ của mạng lưới NQTM có thể tăng lên với tốc độ rất nhanh bởi vì sự phát triển này không bị phụ thuộc, hạn chế bởi vốn của bên giao quyền. Kinh doanh theo phương thức nhượng quyền đem lại nhiều lợi ích hơn là việc đầu tư một số lượng tiền và nguồn lực tài chính khổng lồ khác vào việc xây dựng một mạng lưới các chi nhánh hay thiết lập mạng lưới các nhà phân phối độc lập mà không có sự kiểm tra, giám sát của BNQ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng thích hợp với mô hình này. Ví dụ đối với thương hiệu Phở 24 - là thương hiệu khi nhượng quyền còn cần xem xét đến cả mặt bằng kinh doanh, để có được mặt bằng kinh doanh đạt tiêu chuẩn chủ thương hiệu này đã phải mất một thời gian mới có thể đưa được sản phẩm của mình phát triển ra miền Bắc. Đấy là chỉ trong nội bộ một quốc gia, chưa kể đến khi muốn phát triển mở rộng thị trường ra nước ngoài thì rất khó để Phở 24 có thể tìm được mặt bằng ưng ý, thuê hoặc mua được mặt bằng đó tại nước sở tại để phát triển kinh doanh. Còn rất nhiều khó khăn nữa mà khi muốn trực tiếp kinh doanh sẽ rất khó cho một doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có nhiều cách thức mà mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn nhằm khắc phục những khó khăn đó và NQTM là một phương pháp phù hợp. - Khi thực hiện NQTM, BNQ sẽ nhận được một khoản phí nhất định. Khoản phí này có thể là phí nhượng quyền ban đầu mà nhà nhận quyền phải trả để được tham gia vào hệ thống nhượng quyền. Ngoài khoản phí tham gia hệ thống mà BNhQ phải trả, bên này còn phải trả những khoản phí khác như: phí định kỳ thường xuyên cho đến hết thời gian tham gia hệ thống, các loại phí khác cho các hoạt động hỗ trợ của BNQ,... Bởi vậy có thể dẫn đến tiết kiệm và phân chia hiệu quả hơn một số loại chi phí mà BNQ vốn phải gánh chịu, như chi phí quảng cáo, chi phí bảo vệ quyền SHTT, chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm/dịch vụ,…Không những thế BNQ còn được hưởng lợi ích vô hình, tức là việc tăng lên không ngừng của giá trị nhãn hiệu, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại và các tài sản SHTT khác do sự phát triển của mạng lưới NQTM mang lại. - BNhQ là bên trực tiếp kinh doanh tại khu vực nhượng quyền nên BNQ không cần phải quá lo lắng về sự am hiểu phong tục, tập quán, thói quen của người tiêu dùng tại khu vực đó. Nhờ vào kiến thức kinh doanh mà các BNhQ có được trên thị trường riêng của mình mà một mạng lưới sẽ có khả năng dễ dàng tương thích với những gò bó, những đặc điểm của kinh tế địa phương và nhu cầu đặc trưng của mỗi thị trường hơn là hệ thống chi nhánh. Từ đó giúp nâng cao khả năng thành công của hệ thống NQTM hơn. * Nhược điểm của việc bán Franchise Bên cạnh những thế mạnh, NQTM cũng có những hạn chế mà nếu BNQ không chú ý rất có thể có những rủi ro xảy ra như: - NQTM có thể khiến cho BNQ dễ bị ăn cắp bí quyết kinh doanh, làm nhái sản phẩm: Ví dụ cho quan điểm này chính là: cà phê Trung Nguyên – doanh nghiệp trong nước đầu tiên áp dụng NQTM - đến nay có khoảng 1000 cửa hàng NQTM trong và ngoài nước, nhưng trên thị trường vẫn còn tồn tại hàng trăm cửa hàng Trung Nguyên giả mà chưa xử lý được. Hay cũng Cà phê Trung Nguyên trong tình huống bị chính đối tác Mỹ ăn cắp thương hiệu. Khi Trung Nguyên nộp hồ sơ xin đăng kí thương hiệu tại Mỹ với tên gọi “Trung Nguyên - Nguồn cảm hứng sáng tạo mới”, thì biết chính phía đối tác Mỹ của mình là Công ty Rice Field Carp đã đăng kí nhãn hiệu trước với tên gọi “Cà phê hàng đầu Buôn Mê Thuột – Trung Nguyên”. Sau đó Trung Nguyên đã đòi lại được nhãn hiệu của mình nhưng phải mất một số tiền khá lớn và mất đi nhiều cơ hội nhượng quyền vào thị trường lớn Hoa Kì [37]. Không những thế khả năng bị làm nhái sản phẩm còn bị đe doạ bởi chính từ phía BNhQ khi hết thời hạn hiệu lực của hợp đồng NQTM, lí do là khi kí kết hợp đồng thì BNQ sẽ phải trao cho BNhQ toàn bộ bí quyết kinh doanh, cách thức quản lý, và BNhQ thì được toàn quyền sử dụng nhãn hiệu và tên thương mại của BNQ. Đặc điểm này sẽ giúp BNhQ hiểu rõ, thấu đáo về các vấn đề của BNQ (bao - Giảm giá trị của thương hiệu : Chỉ cần một BNhQ không thực hiện đầy đủ và đúng các ý tưởng kinh doanh, các yêu cầu nghiêm ngặt của BNQ đưa ra thì rất dễ gây ra ảnh hưởng tới không chỉ cơ sở nhượng quyền đó mà đối với toàn bộ hệ thống nhượng quyền, làm giảm giá trị thương hiệu hoặc tồi tệ nhất là làm đổ bể cả chuỗi hệ thống NQTM. Ví dụ cho quan điểm này chính là: chủ thương hiệu Phở 24 đã phát hiện trong số các cửa hàng NQTM của mình có cửa hàng đã làm trái quy định khi tìm cách giảm chi phí kinh doanh bằng việc giảm số lượng thịt trong tô phở, tắt máy lạnh,…,khiến nhiều khách hàng phàn nàn. Điều này nếu không được chủ thương hiệu phát hiện sớm sẽ có nguy cơ làm mất uy tín của thương hiệu. Hay đôi khi chỉ là thái độ thiếu lịch sự của một nhân viên một cửa hàng franchise hay vết bẩn trong món