Đề tài Một số vấn đề về hoạt động đảm bảo vật tư cho sản xuất của công ty khoá Minh Khai

Đảm bảo vật tư cho sản xuất là một vấn đề quan trọng rất phức tạp bản thân nó bao hàm nhiều quá trình kinh tế và giữa chúng lại có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Ngày nay việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, ở Việt nam đã khiến cho mọi doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm từ kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Trên thực tế không ít các doanh nghiệp đã gặp nhiều khó khăn và lúng túng trong công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất, như tình trạng dư thừa ứ đọng vật tư, không tìm được nguồn vật tư, sử dụng lãng phí vật tư.

doc58 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về hoạt động đảm bảo vật tư cho sản xuất của công ty khoá Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Nói Đầu *** Đảm bảo vật tư cho sản xuất là một vấn đề quan trọng rất phức tạp bản thân nó bao hàm nhiều quá trình kinh tế và giữa chúng lại có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Ngày nay việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, ở Việt nam đã khiến cho mọi doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm từ kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Trên thực tế không ít các doanh nghiệp đã gặp nhiều khó khăn và lúng túng trong công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất, như tình trạng dư thừa ứ đọng vật tư, không tìm được nguồn vật tư, sử dụng lãng phí vật tư...Do vậy việc phải làm sao cho công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất, đáp ứng được các yêu cầucủa quá trình sản xuất kinh doanh như; Cung ứng đầy đủ các loại vật tư về số lượng, chất lượng đúng quy cách phẩm chất, kịp thời gian và đồng bộ. Việc kinh doanh vật tư phải đảm bảo đượclợi thế cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường,là những đòi hỏi rất cấp thiết . Để góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giúp công ty khoá Minh Khai hoàn thiện công tác tổ chức, đảm bảo vật tư cho công ty một cách khoa học,nhàm thích ứng với điều kiện sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện nay.Tôi xin nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về hoạt động đảm bảo vật tư cho sản xuất của công ty khoá Minh Khai" Các nội dung chủ yếu của đề tài bao gồm Chương I:Vai trò và nội dung của công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất củaDNSXCN. ChươngII:Thực trạng và công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất ở công ty khoá Minh Khai ChươngIII:Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất. Kết luận: Chương I Vai trò và nội dung của công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất của DNSXCN I. Đảm bảo vật tư cho sản xuất là điều kiện tất yếu của quá trình sản xuất 1.Hàng hoá vật tư - Là sản phẩm của lao động dùng để sản xuất ra sản phẩm, đó là nguyên nhiên liệu,vật liệu điện lực, bán thành phẩm, thiết bị máy móc, dụng cụ và phụ tùng. - Vật tư là sản phẩm của lao động được trên dùng cho sản xuất. Nó là một yếu tố không thể thiếu được đối với bất kỳ nền sản xuất nào. - Vì vậy chúng ta phải làm rõ hai thuộc tính của hàng hoá đó là: Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá. - Sản xuất hàng hoá tồn tại nhiều hình thái kinh tế xã hội. - Trong lịch sử đã tồn tại ba loại sản xuất hàng hoá. + Sản xuất hàng hoá giản đơn. + Sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. + Sản xuất hànghoá xã hội chủ nghĩa. - Sản xuất hàng hoá trong mỗi hình thái kinh tế xã hội có bản chất khác nhau, nhưng đó là hàng hoá thì chúng phải có hai thuộc tính sau: * Giá trị sử dụng: Do công dụng của vật thể đó quy định nó dùng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùnh cho sản xuất. Công cụ của vật phẩm nó chở thành giá trị sử dụng Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên chứ không phải do thuộc tính xã hội của vật phẩm đó quyết định. Vì vậy giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Mác nói: "Giá trị sử dụng cấu thành các nội dung vật chất của cải chẳng kể hình thái xã hội đó như thế nào” - Giá trị sử dụng là một thuộc tính hàng hoá gắn liền với vật thể hàng hoá, nhưng đó không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là một giá trị sử dụng cho người sử dụng chúng. - Nhờ thuộc tính đó của hàng hoá nên các hàng hoá đó có thể trao đổi được với nhau chẳng qua là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong những hàng hoá đó. * Giá trị: Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị, là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Vậy thì vật tư hàng hoá có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Cần chú ý rằng hai thuộc tính này cũng kết tinh trong hàng hoá, điều đó có nghĩa là giá trị sử dụng và giá trị thống nhất với nhau nhưng không hoàn toàn tách lập một cách biệt lập thô thiển. Một giá trị bao giờ cũng đi liền với một giá trị sử dụng nhất định. Một giá trị sử dụng được sản xuất để trao đỏi đã là cái chứa đựng trong hàng hoá. Như vậy khi chúng ta sử dụng một hàng hoá nào đó làm hao mòn giá trị sử dụng, thì cũng có nghĩa là chúng ta đã tiêu tốn một lượng giá trị để mua một giá trị sử dụng đó phải xứng đáng, phải phù hợp với lượng giá trị đã bỏ ra bằng một lượng giá trị nhất định. Chúng ta có thể mua được những giá trị sử dụng nhất định phù hợp với nó. Quan hệ giữa giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được biểu hiện ở quy luật giá trị. Đây là quy luật của nền sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá phải được tiến hành trên cơ sở ngang giá hay nói cách khác nó yêu cầu giá trị sử dụng của một hàng hoá luôn thống nhất với nhau và phù hợp với nhu cầu của xã hội. Đại hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VI đã thừa nhận nền kinh tế Việt nam là xã hội. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Vật tư là sản phẩm của lao động, được tiêu dùng trong sản xuất như vậy trong nền kinh tế hàng hoá thì vật tư là hàng hoá, vật tư có hai thuộc tính như các hàng hoá khác đó là giá trị và giá trị sử dụng. Điều đó có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh thương mại vật tư. 2.Sự cần thiết của vấn đề tổ chức quá trình đảm bảo vật tư. Để quá trình sản xuất có thể diễn ra, đòi hỏi mọi doanh nghiệp phải có ba yếu tố; vật tư, lao động, tiền vốn. Vật tư là sản phẩm của lao động, nó được trao đổi thông qua mua bán để phục vụ cho sản xuất. Vật tư là yếu tố quan trọng trong ba yếu tố của quá trình sản xuất. Trực tiếp cấu tạo nên thực thể của sản phẩm. Như vậy vật tư là cần thiết không thể thiếu được trong bất kỳ nền sản xuất nào. Để có vật tư cho sản xuất thì phải thông qua vấn đề tổ chức quá trình đảm bảo vật tư cho sản xuất, chính là bảo đảm quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và bảo đảm sự tồn tại phát triển của đơn vị sản xuất. Để có vật tư kịp thời cho sản xuất theo đúng tiến độ đòi hỏi mỗi đơn vị phải tổ chức một cách khoa học từ xác định nhu cầu đến tổ chức thu mua, quản lý nhu cầu phù hợp với yêu cầu sản xuất. Để giảm giá thành sản phẩm, tuỳ lợi nhuận và thu nhập. Như vậy vấn đề tổ chức đảm bảo vật tư cho sản xuất là cần thiết không thể thếu được, nó là cơ sở cho quá trình sản xuất diễn ra một cách thường xuyên liên tục trong nhịp độ khác nhau với những biến động khác nhau của thị trường. 3. ý nghĩa của vấn đề tổ chức quá trình đảm bảo vật tư cho sản xuất. Để thực hiện quá trình sản xuất liên tục đòi hỏi đảm bảo thường xuyên nguyên nhiên vật liệu và thiết bị máy móc...chỉ có đảm bảo đủ số lượng, đúng mặt hàng và chất lượng vật tư cần thiết với thời gian quy định thì sản xuất mới có thể tiến hành bình thường được và sản xuất kinh doanh mới có hiệu quả. Ngược lại nếu vật tư mua về quá số lượng quy định, chất lượng không đúng với yêu cầu dẫn đến tồn đọng vốn, sản phẩm sản xuất ra không bán được, hiệu quả sản xuất kinh doanh kém đi và nếu vật tư mua về không kịp thời dẫn tới sản xuất bị ngừng trệ, dẫn tới tăng giá thành sản phẩm . Tóm lại trong điều kiện hiện nay nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường, vấn đề đảm bảo vật tư cho sản xuất cần bám sát thị trường. Lập kế hoạch cung ứng vật tư phải bám sát kế hoạch sản xuát và tiêu thụ. Giải quyết tốt mối quan hệ Tiền-Hàng-Tiền theo quy luật giá trị để định hướng ổn định vật tư thường xuyên cho quá trình sản xuất. 4.Sự tác động qua lại của việc đảm bảo vật tư và quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất liên quan chặt chẽ đến quá trình cung ứng vật tư và tiêu dùng vật tư được thể hiện ở những điểm sau. Tên cơ sở kế hoạch sản xuất lập kế hoạch cung ứng vật tư cụ thể là: Nhu cầu vật tư = (Sản lượng kế hoạch nhân với định mức tiêu chuẩn ). Kế hoạch cung ứng vật tư càng sát với kế hoạch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Vật tư mua về thừa hoặc thiếu đều ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh. Cân đối nguồn tài chính mua vật tư đưa vào số lượng vật tư theo kế hoạch, để tránh tình trạng mất cân đối nguồn vốn. Sản xuất mà liên tục, tiêu thụ sản phẩm đều đặn, sẽ tạo ra nguồn vốn cung ứng vật tư. Nhưng nếu tiêu dùng vật tư không đúng với yêu cầu công nghệ sẽ làm tăng chi phí sản xuất, tăng giá thành sản phẩm, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, gây khó khăn về tài chính cho doanh nghiệp, cản trở việc mua bán vật tư. Thực hiện quá trình sản xuất là thực hiện quá trình biến đổi từ nguyên vật liệu, dưới tác dụng máy móc con người, giá trị vật tư được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm. Nếu yêu cầu đặt ra giữa sản xuất và tiêu dùng vật tư đúng với yêu cầu kỹ thuật là nghiêm ngặt. Bên cạnh đó phải đầu tư khoa học kỹ thuật cải tiến công nghệ, giảm định mức tiêu hao vật tư, tăng hiệu quả sản xuất, tăng nguồn vốn và nhu cầu vật tư được đảm bảo. Sản xuất tiêu dùng vật tư phải được qua lưu thông hàng hoá, sản xuất bảo đảm tiêu thụ sản phẩm, tránh khê đọng sản phẩm là tránh ứ đọng vật tư. Việc thanh toán với khách hàng bằng quan hệ tiền hàng hoặc thông qua tổ chức kinh doanh khác bằng sản phẩm là tự ngang giá trị, nên giá thành sản phẩm phải được thị trường chấp nhận. Ngoài ra việc tiêu dùng vật tư trực tiếp phải tính đến các yếu tố chi phí lưu thông vật tư để đảm bảo sản xuất có hiệu quả. II.Nội dung của quá trình đảm bảo vật tư cho sản xuất ở doanh nghiệp sản xuất. 1.Nghiên cứu thị trường và lập kế hoạch mua sắm vật tư cho sản xuất. Kế hoạch mua sắm vật tư cho sản xuất là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính của doanh nghiệp. Việc xây dựng kế hoạch mua sắm kịp thời và có chất lượng sẽ cho phép đảm bảo các yếu tố sản xuất một cách có hiệu quả nhất. Lập kế hoạch mua sắm vật tư là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều bước và nhiều công việc phải làm như: Nghiên cứu thị trường các yếu tố sản xuất để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, xác định được thị trường đáp ứng được nhu cầu vật tư cho doanh nghiệp cả về số lượng, chất lượng, thời gian và giá cả. Nghiên cứu nhiệm vụ sản xuất trong năm kế hoạch, khả năng tiêu thụ sản phẩm, kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch vật tư trong năm báo cáo. Xác định lại bảng danh mục vật tư dùng trong năm, kế hoạch, xây dựng và chỉnh lý các loại định mức, bao gồm định mức tiêu hao nguyên vật liệu, định mức sử dụng công suất thiết bị máy móc và định mức dự trữ vật tư. Tính toán nhu cầu vật tư trong toàn bộ doanh nghiệp và cho tất cả các loại công việc. Tính toán nguồn vật tư, lập biểu tổng hợp nhu cầu vật tư và biểu cân đối vật tư. 1.1Vị trí và đặc điểm của kế hoạch mua sắm vật tư cho sản xuất. Kế hoạch mua sắm vật tư là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất-Kỹ thuật - Tài chính doanh nghiệp. Chúng có quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác như kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch xây dựng, kế hoạch tài chính...Trong mối quan hệ này kế hoạch mua sắm vật tư bảo đảm yếu tố vật chất để thực hiện các kế hoạch , còn các kế hoạch khác là căn cứ để xây dựng kế hoạch mua sắm vật tư. Thật vậy chẳng hạn như mối quan hệ với kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch vật tư không thể xa rời những chỉ tiêu trong những kế hoạch này, để xác định nhu cầu vật tư. Vì một sự xa rời những chỉ tiêu trong kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch mua sắm vật tư sẽ đưa đến tình trạng ứ đọng vật tư, ứ đọng vốn hoặc tình trạng không đảm bảo vật tư cho sản xuất, gây giảm giai đoạn sản xuất. Mặt khác cũng phải thấy rõ những đặc điểm riêng biệt của kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp, để có thể nâng cao chất lượng của kế hoạch xây dựng nhằm phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Kế hoạch mua sắm vật tư có những đặc điểm sau: Kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch mua sắm vật tư, sẽ dự kiến trực tiếp thời gian của qúa trình sản xuất, sự tiêu dùng trực tiếp các tư liệu sản xuất sẽ phát sinh trong doanh nghiệp. Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp rất phức tạp. Tính chất phức tạp của nó thể hiện ở chỗ trong kế hoạch có rất nhiều loại vật tư với rất nhiều quy cách, chủng loại rất khác nhau và phương pháp cơ bản để lập kế hoạch này, là phương pháp cân đối. Kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp có tính chất cụ thể và nghiệp vụ cao độ của kế hoạch mua sắm vật tư. Đặc điểm này xuất phát từ tính chất của sản xuất là bao giờ cũng mang tính cụ thể. Vì vậy kế hoạch mua sắm vật tư phải rất chi tiết cụ thể, phải đặt mua những vật tư thích hợp phục vụ tốt cho sản xuất, tính chất cụ thể và nghiệp vụ cao độ của kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp còn thể hiện ở chỗ số lượng mua sắm , sẽ được phân chia ra cho từng phân xưởng, nhất định trong từng thời kỳ nhất định. 1.2Nội dung và trình tự lập kế hoạch mua sắm vật tư. a)Nội dung của kế hoạch mua sắm vật tư; - Kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp thực chất là sự tổng hợp những tài liệu tính toán kế hoạch, nó là một hệ thống những bảng biểu, tổng hợp nhu cầu vật tư và một hệ thống các bảng biểu cân đối vật tư. Nhiệm vụ chủ yếu của nó là bảo đảm vật tư một cách tốt nhất cho sản xuất. Muốn vậy kế hoạch mua sắm vật tư phải xác định, cho lượng vật tư cần thiết có trong kỳ kế hoạch cả về số lượng, chất lượng và thời gian. Bên cạnh việc xác định lượng vật tư cần mua, kế hoạch mua sắm vật tư còn phải xác định rõ nguồn vật để thoả mãn các nhu cầu của doanh nghiệp. Bởi vậy kế hoạch mua vật tư thường phản ánh hai nội dung cơ bạn sau đây: Một là phản ánh toàn bộ nhu cầu vật tư của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch như nhu cầu vật tư cho sản xuất, cho xây dựng cơ bản, cho sửa chữa, cho dự trữ. Hai là phản ánh các nguồn vật tư để thoả mãn nhu cầu nói trên, bao gồm nguồn tồn kho đầu kỳ, nguồn động viên tiềm lực nội bộ doanh nghiệp và nguồn mua ngoài. b)Trình tự lập kế hoạch mua sắmvật tư : Trình tự lập kế hoạch là những bước công việc phải làm để có được kế hoạch đối với các doanh nghiệp, việc lập kế hoạch mua sắm vật tư chủ yếu là do phòng kinh doanh lập, nhưng thực tế có sự tham gia của nhiều bộ phận trong bộ máy điều hành doanh nghiệp. Các giai đoạn lập kế hoạch vật tư gồm có: Giai đoạn chuẩn bị: Đây là giai đoạn quan trọng quyết định đến chất lượng và nội dung của kế hoạch vật tư, ở giai đoạn này, cán bộ thương mại doanh nghiệp phải thực hiện các công việc sau, nghiên cứu và thu nhập các thông tin về thị trường, các yếu tố sản xuất chuẩn bị các tài liệu về phường án sản xuất kinh doanh và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, mức tiêu dùng nguyên vật liệu, yêu cầu của các phân xưởng, tổ đội sản xuất và của doanh nghiệp. Giai đoạn tính toán các loại nhu cầu của doanh nghiệp: Đối với các doanh nghiệp sản xuất, để có được kế hoạch mua vật tư chính xác và khoa học, đòi hỏi phải xác định đầy đủ các loại nhu cầu vật tư cho sản xuất. Đây là căn cứ quan trọng, để xác định lượng vật tư cần mua về cho doanh nghiệp. Trong đó nền kinh tế thị trường, với cơ chế tự trang chải và có lợi nhuận để tồn tại và phát triển, việc xác định đúng đắn các loại nhu cầu có ý nghĩa kinh tế to lớn. Giai đoạn xác định số lượng vật tư tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp số lượng vật tư này thường được xác định theo phương pháp "Uớc tính”và phương pháp "Định mức". Giai đoạn kết thúc của công việc lập kế hoạch mua sắm vật tư là xác định số lượng vật tư hàng hoá cần phải mua về cho doanh nghiệp, nhu cầu này của doanh nghiệp được xác định theo phương pháp cân đối nghĩa là: (1) Trong đó: là nhu cầu về loại vật tư i dùng cho mục đích j. tổng nguồn về loại vật tư i đáp ứng bằng nguồn j Trong cơ chế thị trường, yêu cầu của quy luật cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp, phải hết sức quan tâm đến việc mua sắm và sử dụng vật tư kỹ thuật. Nhu cầu mua sắm phải được tính toán khoa học, cân nhắc mọi tiềm năng doanh nghiệp. Trong điều kiện đó, mục tiêu của việc nên kế hoạch mua vật tư là làm so với số lượng vật tư cần phải mua về ở mức tôí thiểu mà đảm bảo được yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Các bộ phận của cân đối trên (1) được gọi là các chỉ tiêu của kế hoạch mua sắm vật tư. Để quản lý hoạt động thương mại doanh nghiệp người ta thường dựa trên cơ sở hệ thống các định mức kinh tế kỹ thuật. Căn cứ định mức của kế hoạch hoá và quản lý Thương mại doanh nghiệp Các mức điều tiết quá trình sản xuất kinh doanh và QLTM Các mức tiêu dùng và sử dụng vật tư kỹ thuật Mức điều tiết thương mại đầu vào Mức dự trữ vật tư cho sản xuất nửa TP Mức dự trữ sản xuất Mức sử dụng thiết bị máy móc Mức tiêu dùng NVL Các mức khác Mức hao hụt tự nhiên Giá cả vật tư hàng hoá Mức chuyển thẳng đặt hàng giao hàng Mức tiêu dùng điện Mức tiêu dùng nhiên liệu Mức tiêu dùng nguyên vật liệu phụ Mức tiêu dùng nguyên vật liệu chính 2.Tổ chức mua sắm vật tư. Trên cơ sở kế hoạch mua sắm vật tư và kết qủa nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp nên đơn hàng vật tư và tổ chức thực hiện, bảo đảm vật tư cho sản xuất, lên đơn hàng là quá trình cụ thể hoá, nhu cầu là việc xác định tất cả các quy cách chủng loại hàng hoá dịch vụ cần thiết. Số lượng đặt mua từng quy cách, chủng loại và thời gian nhập hàng, lập đơn hàng là công tác hết sức quan trọng trong quá trình mua sắm vật tư, và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một sai sót nào cũng có thể dẫn đến đặt mua những vật tư mà nhu cầu sản xuất không cần đến hoặc không đủ so với nhu cầu, với ý nghĩa như vậy phòng kinh doanh phải có trách nhiệm cao trong công tác lập đơn hàng. Để lập đơn hàng được chính xác bộ phận đơn hàng cần tính đến các cơ sở lập đơn hàng như nhiệm vụ của sản xuất , hệ thốnh định mức tiêu dùng vật tư, định mức dự trữ vật tư, lượng tồn kho vật tư, kế hoạch tác nghiệp về đảm bảo vật tư quý tháng. Nhiệm vụ quan trọng trong công tác lập đơn hàng là chọn và đặt mua những loại vật tư, hàng hoá có hiệu quả kinh tế cao. Tổ chức mua sắm vật tư ở doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở đơn hàng và hợp đồng ký kết. 2.1.Dự báo nhu cầu vật tư. Trong tình hình hiện nay vấn đề dự báo rất quan trọng, do thị trường trong và ngoài nước có nhiều thay đổi ảnh hưởng đến mặt hàng kinh doanh trong quá trình thực hiện. Công ty cần nắm vững diễn biến của thị trường về mặt hàng mà công ty sẽ kinh doanh, về giá cả, về phí lưu thông, nguồn hàng và sự cạnh tranh của các đơn vị khác. Để từ đó củng cố thay đổi phương thức kinh doanh của công ty. Công ty cần nghiên cứu nhu cầu tiêu thụ sản phẩm từng quý tháng, để từ đó công ty biết các vật tư mà công ty cần là bao nhiêu, chất lượng ra sao, số lượng vật tư đó mua ở đâu. Qua dự báo này công ty có thể mở rộng thị trường và bán thêm sản phẩm của mình kinh doanh. Khi đó lắm được tình hình tiêu thụ sắp tới của công ty cũng biết thêm khả năng cung cấp vật tư trong nước và nước ngoài. Nguồn hàng mà bán với số lượng giá trị ổn định, thuận tiện để bảo quản vận chuyển đến nơi đơn vị cần mua. Dự báo nhu cầu vật tư cũng cho công ty biết được, những biến đổi của chất lượng sản phẩm nào công ty đã mua hoặc những nguồn hàng mà công ty vừa khai thác, nắm vững được yếu tố này sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của các bộ phận. + Những luận chứng để dự báo nhu cầu vật tư. - Diễn biếncủa thị trường. - Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trong nước. - Khả năng cung cấp vật tư trong nước. - Những biến đổi của cơ cấu sản phẩm. + Những điểm cần chú ý khi dự báo nhu cầu vật tư. - Xác định chi phí sản xuất. - Khả năng trong nước (cung cấp +khai thác). - Cơ chế kinh tế. - Những đòi hỏi về nâng cao chất lượng sản phẩm. 2.2.Các nguồn hàng và đặc điểm. Nguồn hàng của doanh nghiệp là tập hợp bao gồm các bộ phận có nguồn gốc khác nhau, tính chất và đặc điểm khác nhau, các bộ phận này có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Nguồn gốc hình thành góc độ phân cấp quản lý, tính chất đặc điểm, phương thức mua, mà hình thành nên các hệ thống phân loại khác nhau, kiểu lựa chọn tiêu thức phân loại nào, là phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu đã giúp cho công tác tạo nguồn linh hoạt hơn. Do đó lấy tiêu thức phân loại theo nguồn gốc hình thành là phù hợp nhất. Theo tiêu thức này nguồn của các doanh nghiệp bao gồm hai thành phần cơ bản; nguồn nhập khẩu và nguồn nội địa. +Nguồn nhập khẩu: Đây là nguồn được sản xuất tại nước ngoài mà doanh nghiệp có khẳ năng khai thác đáp ứng, phần nào nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Thị trường nước ngoài mà ta vẫn quan hệmua bán trước đây chủ yếu là các nước Đông âu thuộc phe XHCN nhưng sau khi biến động kinh
Tài liệu liên quan